Hát xẩm có từ rất lâu trên đất kinh kỳ Thăng Long xưa. Trải qua năm tháng, đến nay hát xẩm vẫn là một loại hình văn hóa dân gian đặc sắc ở Hà Nội.
Trên lưu vực châu thổ sông Hồng- cái nôi văn hóa của người Việt cổ- tồn tại khá nhiều loại hình diễn xướng dân gian như hát trống quân, cò lả, hát ví, hát xoan ghẹo… nhưng phổ biến và có sức lan truyền mạnh mẽ nhất có lẽ vẫn là hát xẩm, với môi trường diễn xướng rộng rãi và đối tượng khán giả đa dạng.
Thông thường, một nhóm xẩm chính là một gia đình xẩm, có bố, mẹ và các con. Trong đó, bố hoặc mẹ, hoặc cả bố và mẹ bị khiếm thị, các con sáng mắt đi theo, vừa để đỡ đần bố mẹ, vừa học nghề. Tuy hoàn cảnh khốn khó nhưng những nghệ nhân hát xẩm luôn có lòng tự trọng cao. Họ không than thân trách phận mà trái lại luôn lạc quan. Họ tôn trọng nghề nghiệp của mình và coi đó là một công việc cao quý: Cái nghiệp cầm ca có ích cho đời/ Tay đàn miệng hát giúp đời mua vui… (Trích bài xẩm Đáng mặt anh hào – thơ Tản Đà).
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là thời gian thịnh đạt nhất của hát xẩm. Không còn đơn thuần là loại hình giải trí lúc nông nhàn, xẩm đã phát triển thành một nghề kiếm sống của người nghèo nơi thành thị và được truyền dạy từ thế hệ này qua thế hệ khác. Là sản phẩm nghệ thuật của người dân lao động, tính chất âm nhạc cũng như lời ca mộc mạc, chân thành, nhưng xẩm vẫn chứa đựng những nội dung, tư tưởng sâu sắc. Lời ca trong hát xẩm không chỉ phong phú về mặt thể loại: từ ca dao, tục ngữ, truyện thơ dân gian, đến những bài thơ của các tác giả nổi tiếng như Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Nguyễn Bính, Phan Bội Châu… mà còn đa dạng về mặt nội dung. Ca từ của xẩm thường hàm chứa những triết lý, lời răn dạy đạo lý. Thời phong kiến, xẩm đã cất lên tiếng nói bênh vực người lao động, chống lại chế độ phong kiến hà khắc ức hiếp dân lành. Còn những năm tháng sau chiến tranh, các làn điệu xẩm được các nhạc sỹ, cán bộ văn hóa sử dụng như một công cụ để tuyên truyền chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Theo chân những nhà tiểu thương về đất kinh kỳ, xẩm đã nhanh chóng thích nghi, và dần trở thành một loại hình văn hóa dân gian đặc sắc ở Hà Nội. Để phục vụ được những đối tượng khán giả luôn tất bật, xẩm Hà Nội đã thay đổi về cấu trúc cũng như tiết tấu: nhanh và gọn hơn. Biên chế dàn nhạc xẩm Hà Nội cũng được gia tăng và mở rộng, rôm rả hơn để sánh cùng âm thanh náo nhiệt của đường phố. Xẩm Hà Nội thể hiện sự đặc biệt ở lời ca. Người Hà Nội am hiểu và có trình độ trong việc thưởng thức văn học. Họ yêu thích thơ ca, vì thế các gánh hát xẩm đã khéo léo lồng vào điệu hát xẩm những bài thơ của các thi sỹ trứ danh. Những Anh khóa, Cô hàng nước (của Á nam Trần Tuấn Khải), Giăng sáng vườn chè, Em đi tỉnh về (Nguyễn Bính) được đông đảo quần chúng ưa thích, đặc biệt là các chị, các cô.
Còn vẹn nguyên ký ức về những chuyến tàu điện chạy trên đường phố Hà Nội, cùng với tiếng leng keng là tiếng hát, tiếng đàn da diết như trút lòng của vợ chồng nhà xẩm. “Xẩm tàu điện” xuất hiện và đã khẳng định chỗ đứng như mội loại hình âm nhạc dân gian độc đáo của Hà Nội. Xẩm tàu điện đã tái hiện những địa danh, những làng nghề, nếp sinh hoạt và cả những gì đặc thù nhất trong đời sống xã hội của đất kinh kỳ ngàn năm tuổi.
Sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt, tiếp đó là những khó khăn thời bao cấp đã khiến xẩm Hà Nội nói riêng và hát xẩm nói chung có lúc tưởng mai một, thậm chí đứng trước bờ vực của sự lãng quên và thất truyền.
Thời gian gần đây, xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ thì nhu cầu lưu giữ những giá trị truyền thống, bản sắc dân tộc được đặt ra như một yêu cầu bức thiết. Cùng với những biến chuyển của xã hội, không còn là một nhóm người nhỏ lẻ đứng hát nơi góc phố, xẩm ngày nay được trình diễn trên sân khấu trang trọng, với đội ngũ nghệ sỹ trình diễn được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp.
Những loại hình văn hóa dân gian như hát xẩm không đơn thuần mang ý nghĩa về mặt văn hóa, mà lớn lao hơn, đó chính là sự thể hiện rõ nét của đời sống, là biểu hiện của tư tưởng, của tâm hồn cha ông ta. Đó chính là một phần của nguồn cội. Trong thời đại ngày nay, khi cuộc sống diễn ra quá nhanh cùng xu hướng toàn cầu hóa, việc có một nguồn cội vững chắc chính là điểm tựa để chúng ta nuôi dưỡng và hiện thực hóa khát khao vươn tới những tầm cao mới.