Ngày xuân nghe hát ca trù, càng hiểu sự yêu người, yêu đời và sự tinh tế của người hôm qua và hôm nay. Hát ca trù ở tỉnh Thanh còn được gọi là hát cửa đình, hát ca công thấm đậm tính nhân bản và không kém phần cao siêu.
Ngày xuân, mỗi khi giọng ca trù cất lên bay bổng thiết tha hòa với tiếng trống “chát”, “tom” xen tiếng phách rộn ràng lúc khoan, lúc nhặt, tiếng đàn sâu lắng quyện hoà vào lời ca vang xa da diết ân tình tạo thành chuỗi âm thanh trầm ấm, lắng sâu,.. khiến lòng ta xúc động bồi hồi, nhớ về cội nguồn, nhớ về miền ký ức, đánh thức nỗi niềm sâu thẳm của trái tim mình với những gương mặt “hiền như đất” và làng quê yêu dấu có giếng nước, cây đa, mái đình cổ kính.
Hát ca trù ở Thanh Hoá có từ thời nào không rõ, chỉ biết rằng xứ Thanh là đất quý hương của nhà Lê, đã sinh ra vị vua sáng Lê Thánh Tông. Vị vua văn võ toàn tài, thơ văn trác việt. Người đứng đầu hội “Tao đàn nhị thập bát tú” đã chế ra khúc Hà nam trong âm luật Hồng Đức, sau này là giai điệu của hát nói vừa mang sắc thái hoang sơ, huyền bí như là Thiết nhạc, một bản thể lâu đời của ca trù, vừa phóng khoáng linh động, lại đài các cao sang.
Truyền thuyết về cây đàn đáy và hát ca trù còn lưu lại trong ký ức dân gian xứ Thanh này: Có một người thư sinh tên là Đinh Lễ tình cờ gặp hai tiên ông trong rừng thông nơi chàng thường đến uồng rượu ngâm thơ. Một ông tiên cho chàng miếng gỗ ngô đồng, một ông lại cho chàng hình vẽ một cây đàn và bảo Đinh Lễ tìm người đóng theo mẫu ấy rồi dùng đàn để giúp đời. Ai đang buồn nghe tiếng đàn liền tiêu tan sầu muộn, ai đau ốm nghe tiếng đàn thấy tâm hồn thư thái và khỏe mạnh.
Đinh Lễ vâng lời, chàng cho đóng đàn theo như hình mẫu và quả nhiên tiếng đàn như lời hai ông tiên.
Một hôm Đinh Lễ ngao du đến châu Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá nay và gặp quan châu ở nơi đây có một cô gái xinh đẹp tên là Bạch Hoa. Khi lên mười bỗng nhiên mắc bệnh nặng và bị câm. Sang tuổi 19 nhan sắc của cô khiến nhiều chàng trai mê mẩn, nhưng có điều buồn là cô vẫn không nói không cười khiến quan châu buồn lắm.
Rồi cái ngày mà Đinh Lễ đến châu Thường Xuân ấy và với cây đàn huyền diệu của chàng, tiếng lành đã đồn đến khắp bản dưới, mường trên. Dân chúng liền báo cho quân châu biết Đinh Lễ có cây đàn mầu nhiệm, quan Châu bèn cho mời chàng về dinh. Thi lễ xong, Đinh Lễ so dây đàn rồi dạo lên mấy khúc, tức thì nàng Bạch Hoa tiểu thư đang ngồi ăn cơm trong rèm nghe tiếng đàn réo rắt, tâm tình bèn bỏ bát cơm, rồi lấy hai chiếc đũa gõ lên bàn theo nhịp đàn và bỗng nhiên bật lên tiếng nói: “Tiếng đàn hay quá” từ lúc ấy nàng Bạch Hoa lại nói cười được như những ngày nào.
Vợ chồng quan châu mừng lắm liền gả con gái quý cho Đinh Lễ. Trong ngày thành hôn của họ Đinh Lễ soạn khúc “Loan phụng hoà mình, lời ca tiếng đàn ngân lên làm cho mọi người hết lời khen ngợi. Khúc ca ấy được truyền tụng mãi đến mai sau.
Để nhớ lúc nàng Bạch Hoa nghe tiếng đàn hay đã lấy hai chiếc đũa gõ nhịp hoà âm với lời ca bay bổng, ngày nay hát ca trù vừa hát, phải vừa gõ phách bằng hai dùi trên lá phách.
Hát ca trù cũng lắm công phu và có các lễ tục phải kiêng kỵ tên bậc tổ trong phường. Như truyền thuyết kể trên, người được các vị tiên truyền cho cách đóng đàn đáy là Đinh Lễ, vì vậy chữ “lễ” phải đọc chệch đi là “lỡi”. Nàng Bạch Hoa phải đọc chữ “bạch” thành “biệc”, “hoa” đọc ra là “huê…”
Giáo phường ca trù có phong tục thờ thầy. Học trò theo nghề ca hát mỗi lần hát đình đám phải trích một phần tiền hát góp với phường để cung dưỡng thầy gọi là tiền đầu.
Hàng năm vào ngày 11 tháng chạp, giáo phường có tục lễ tổ làm lễ tế Bạch Hoa công chúa. Có tục “mở xiêm áo”. Khi một người học biết cầm lá phách, biết hát các loại làn điệu, khúc thức, bài hát một cách căn bản thì xin phép được làm lễ trình. Những người am hiểu nghề trong giáo phường tụ họp lại, sát hạch người học trong một buổi, nếu trả lời thông suốt, giọng ca hoà nhập với tiếng đàn lời phách, trống chầu, thể hiện được cái thần của ca từ… thì được phép chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ Cao tổ, rồi mời quan viên có danh vọng, am hiểu ca trù tới nghe và cầm trống cho buổi hát đầu tiên gọi là “Lễ mở xiêm áo”.
Ca trù ngày xuân
Trong các làng quê xứ Thanh từ xa xưa và cho tới trước những năm 1960 của thế kỷ XX vẫn còn nhiều nơi hát ca trù – hát cửa đình. Hát cửa đình ở Thanh Hoá được hát vào dịp tế thờ Thành hoàng làng, không tham gia vào việc tế thần mà chủ yếu là hát vui trong dịp thờ thần, hát ở nơi hội hè, mừng thọ, tiệc vui, đôi khi những người hát, người đàn lại đàn hát cho nhau nghe.
Hát ca trù có ở các làng quê như Vệ Yên – Quảng Thắng (Thành phố Thanh Hoá), Hoa Trai (Tĩnh Gia), Xá Lê, Thuần Hậu – Xuân Minh, Bàn Thạch – Xuân Quang (Thọ Xuân), Bái Thủy – Định Liên (Yên Định), Hoằng Phú, Hoằng Trạch, Hoằng Phong (Hoằng Hoá). Ở Ngọc Trung – Xuân Minh (Thọ xuân) còn có đền thờ tổ sư nghề ca công. Ở Đồng Lạc (Hoằng Trạch, Hoằng Hoá) thờ bà Chúa Trắng – là cô gái đẹp hát hay, bà đã dạy hát cho dân và trở thành một nghề truyền thống. Ngôi đình là nơi tổ chức hát, hôm nào bà hát người đứng nghe chật ních. Bà được nhà vua khen và thưởng rất hậu. Giữa hát ca công, cửa đình tỉnh Thanh với ca trù Cổ Đạm (Hà Tĩnh), Lỗ Khê (Đông Anh – Hà Nội) có sự giao tiếp và ảnh hưởng lẫn nhau. Ca trù Lỗ Khê có nguồn gốc từ Thanh Hoá. Người đưa ca trù xứ Thanh ra đất Thăng Long không ai khác chính là Đinh Triết là con trai Đinh Lễ. Chàng trai họ Đinh đã đưa ca trù ra Lỗ Khê và khi mất đã được tôn là tổ nghề ở đây.
Vậy ca trù là gì? Ca là câu hát ngân lên thành khúc điệu. Trù là một cái thẻ ghi chữ đánh dấu để thưởng cho người hát hay. Khi người hát, hát đoạn nào hay, luyến láy ca từ khéo, người nghe hát cảm phục, bỏ một, hai hay nhiều thẻ tre vào hộp.
Người ta thống kê ca trù có trên 80 làn điệu và đến những năm 1930 vẫn còn 44 làn điệu lưu truyền trong nhân dân. Giọng hát ca trù thường lấy nguyên âm “ư”, nguyên âm êm dịu, trầm ấm lan xa làm nền.
Cách hát ca trù ở tỉnh Thanh cũng đơn giản. Trước cửa đình, trên một cái chiếu trải rộng, người hát vừa hát vừa gõ phách, có nhạc cụ đệm. Một ban hát chỉ 3 người là đủ. Người xem lễ xong đứng vòng trong, vòng ngoài mà xem hát.
Hát ca trù phải do người hát có giọng khoẻ, trầm và sang. Người hát gọi là “đào nương”, và sau này là “cô đầu”.
Trong hát ca trù, nhạc đệm cho người hát là chiếc đàn đáy, trống chầu và phách. Đàn đáy là loại nhạc cụ dân tộc rất hợp với hát ca trù. Thùng đàn là hộp gỗ hình chữ nhật, ba dây đàn là những sợi tơ: dây hàng (dây to) dây trung và dây tiếu (dây nhỏ). Cần đàn cao vút dài hơn 1 mét, mười cung đều tăm tắp. Cây đàn này phát ra âm sắc trầm đục, sâu lắng, đầy chất suy tư.
Cùng với cây đàn đáy và người chơi đàn giữ vai trò chủ đạo trong hát ca trù. Nhạc cụ trông chầu với âm sắc “tom”, “chát” do chiếc roi hay dùi trống gõ vào mặt, tang trống tạo ra nâng cho tiếng đàn lời ca, tiếng phách nhấn, láy và dừng, ngắt chính xác, không lỗi nhịp. Roi trống phải nằm ngang mặt trống. Cách ngồi, tay vịn trống, tay cầm roi trống phải đúng phong cách. Trống thường đánh ba tiếng để gọi, hoặc đánh khổ trống Thôi cổ, hai tiếng trống khoan thai để giục đào kép. Trong lúc hát, có nhiều khổ trống dùng để khen giọng hát, khen tiếng đàn mang tên “Song châu”, “Lưu châu”, “Xuyên tâm”, “Thượng mã”, “Phi nhạn”…
Phách là một nhạc cụ gõ làm bằng gỗ hoặc một mảnh tre khô, già được đẽo gọt, chuốt vuốt kỹ và một dùi tròn và một dùi chẻ làm hai gập lại. Gõ phách do ca công-người hát điều khiển. Gõ dùi chẻ xuống phách gọi là “lá phách”, gõ dùi tròn xuống phách gọi là “tay ba”, gõ phách một tay thấp, một tay cao, một tiếng nhẹ, một tiếng mạnh, một tiếng đục, một tiếng trong, hai tiếng cùng đánh một lúc gọi là “chác”. Trong hát ca trù phách là linh hồn của cả canh hát cùng hoà nhịp với lời ca, tiếng đàn, tiếng trống.
Người hát ca trù ngoài chất giọng trời phú cho, ngay từ bé và cho mãi tới sau này họ phải thường xuyên tập luyện để giữ được “hơi trong”, buông được “hơi ngoài”. Trong nghệ thuật nhấn, nhả khi lời ca cất lên, người nghe tưởng như gần, như xa, như cao, như thấp, khi khoan, khi nhặt rồi hút hồn trong lời ca, tiếng nhạc.
Thông thường có hai cách hát, hát khuôn và hát bay bướm. Hát khuôn theo lề lối “tròn vành rõ chữ”, mối chữ phải uốn nắn công phu, phải có dư âm, biết cách “đổ hột” tức là ngân ngắt đoạn nghe như tiếng hạt châu rơi trên mâm, phải gằn lấy hơi từ cổ họng chứ không phải từ lồng ngực. Đổ hột thật nhuyễn gọi là “đổ con kiến”. Hát bay bướm gọi là “hát hàng hoa”.
Thang âm ca trù rất gần với cấu trúc thang âm của hát ru trong dân gian, thang âm của ca trù là son, la, đô, rê, mi. Về điệu thức, ca trù có 6 cung: cung Huỳnh, cung Bắc, cung Nam, cung Pha, cung Nao và cung Phú. Đặc biệt nghệ thuật cấu tạo, chuyển tiếp khéo léo đến mức không làm người nghe bị xốc hay ngang tai mà một cảm giác rất lạ cứ thấm dần vào tâm trí, linh thiêng huyền bí, bay bổng lâng lâng hay man mát buồn thương.
Thời gian trôi qua, có lúc ca trù rơi vào quên lãng, những nghệ nhân ca trù âm thầm nhớ tiếc và hoài niệm… Song, cùng với sự đổi mới của đất nước, quê hương cùng với những giá trị văn hoá cổ truyền được khơi dậy, gìn giữ, phát huy. Ca trù lại trở về với cuộc sống đời thường của nó. Các canh hát ca trù lại được ngân lên trên quê hương Đinh Lễ, Bạch Hoa, từ châu Thường núi biếc non xanh cho đến đôi bờ sông Chu, sông Mã và về với biển nơi thờ bà Chúa Trắng-sóng vỗ mênh mang, dạt dào con nước đầy vơi cùng năm tháng. Lời ca tiếng phách ấy lại còn vang lên trên đất Hà thành, góp lời ca của quê Thanh cùng với Bích Câu đạo quán – câu lạc bộ ca trù mãi bay xa.
Mùa xuân và trong các tháng giêng, hai, đến làng quê nào trên đất tỉnh Thanh cũng ít nhiều bắt gặp những lời ca bay bổng của các nghệ nhân ca trù xứ Thanh được tổ chức. Những người hát ca trù có tiếng ở tỉnh Thanh được nhiều người biết đến như cụ Diệm (Hậu Lộc), cụ Kim (Nông Cống) thật hiếm…
Ca trù với những lời ca được chắt lọc từ thơ, phú là những bài ca hay như: Gửi thư, Sa mạc, Bồng mạc,Tỳ bà hành, Thiết nhạc… lại được giọng hát như có nhiệm mầu, tiếng đàn lão luyện, tay trống hào hoa được chấp cánh bay lên thấm đẫm nghĩa nhân, đầy chất thơ, cao sang, hư thực… tất cả hoà vào nhau lôi cuốn người nghe trong âm điệu mê say như là ma lực.
Người chơi đàn cũng là người truyền dạy cho lớp trẻ trong canh hát ca trù hôm nay là Nghệ nhân ưu tú Ngô Trọng Bình đã ngoài 80 tuổi. Ngay từ nhỏ, cụ đã say đàn và những canh hát cửa đình. Cha của cụ là người chơi đàn có tiếng. Cây đàn đáy cụ đang gẩy là cây đàn thờ của dòng họ ở Nông Cống đã “tìm mặt gửi vàng” trao lại, cụ coi đó như báu vật. Ngón đàn của người nghệ sĩ già thật tài hoa, buông bắt hoà với trống phách và lời ca làm chúng ta cảm phục.
Chiếc trống chầu của các nghệ nhân dân gian được sử dụng thật tài nghệ và điêu luyện, luôn ăn nhịp với tiếng đàn, tiếng phách, giọng ca. Roi trống trong tay người nghệ sĩ luôn múa tít, lúc điểm lên mặt trống, lúc gõ xuống tang tạo nên chuỗi âm thanh lay động hồn người.
Ca trù là một nền âm nhạc bác học nhiều khách nước ngoài và các nhà nghiên cứu âm nhạc đã khẳng định và được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Ca trù là một loại âm nhạc độc đáo, chỉ cần ba diễn viên mà thể hiện được nét nhạc, điệu thức, tiết tấu của bài bản, lại có cách hát, cách đàn, cách gõ phách rất đặc biệt, khiến cho người nghe, người xem ngưỡng vọng, say mê có khi thức suốt đêm thâu, thời gian như ngừng trôi, đọng trong canh hát.
Ngày xuân nghe hát ca trù, ta như được chứng kiến điệu hồn của cha ông từ xưa vọng lại. Tiếng hát mượt mà, lảnh lót, tình tứ mà đắm say hoà với tiếng phách phát ra từ thanh tre những chuỗi âm thanh chắc gọn, cùng với tiếng đàn lay động tâm can, tiếng trống chầu giữ nhịp… tất cả bừng lên chan chứa ân tình. Bảo tồn và phát huy ca trù – nét đẹp độc đáo của văn hoá cổ truyền xứ Thanh mãi bay bổng, tỏa lan, ngấm vào mạch đất, thấm vào lòng người hôm qua, hôm nay và mãi muôn sau.
Nguồn: Hoàng Minh Tường Văn hóa và đời sống