Ca Trù là một lối hát cổ truyền của người Việt. Tên gọi Ca Trù cũng đã được tài liệu cổ ghi nhận. Trên các tài liệu Hán Nôm chữ “Trù” trong “Ca Trù” đều dùng chữ “Trù”. Theo đó “Trù” là thẻ làm bằng tre, trên thẻ có ghi số tiền (hoặc quy định ngầm với nhau là mỗi thẻ tương ứng với một khoản tiền), dùng để thưởng cho đào và kép ngay trong khi biểu diễn thay cho việc thưởng bằng tiền mặt; cuối chầu hát sẽ căn cứ vào số thẻ mà tính tiền trả cho đào và kép hoặc giáo phường. Người quyết định việc thưởng này chính là vị quan viên (khách nghe hát), sử dụng Trống Chầu (gọi là Cầm Chầu). Đó là nguồn gốc của tên gọi Ca Trù; cũng là thuật ngữ sử dụng trong chuyên khảo này. Tuy nhiên Ca Trù, với ý nghĩa là một lối hát có dùng thẻ để thưởng như đã nói ở trên thì chỉ có ở hát Ca Trù ở đình đền, tức là Hát Thờ.
Ca Trù sử dụng ba nhạc khí đặc biệt (không chỉ về cấu tạo mà còn về cách thức diễn tấu) là đàn đáy, phách và trống chầu. Về mặt văn học Ca Trù làm nảy sinh một thể loại văn học độc đáo là Hát Nói. Đây là một bộ môn nghệ thuật ca nhạc “thính phòng” được hình thành trên nền tảng âm nhạc dân gian Bắc Bộ, người nghe cũng tham gia vào cuộc hát bằng việc Cầm Chầu. Ca Trù còn có những cái tên khác như: Hát Cửa Đình, Hát Nhà Trò (hát ở đình, đền, miếu), Hát Cửa Quyền (trong cung phủ), Hát Nhà Tơ (hát ở dinh quan, tư gia các gia đình quyền quý), Hát Ả Đào, Hát Cô Đầu (hát ở các ca quán)…
Ca Trù gắn liền với nghi thức tế thần ở các đình làng, ngoài những điệu hát còn có các nghi lễ với vũ điệu và cả các cách thi tuyển tại đình làng trong dân gian nên các lề lối biểu diễn Ca Trù được gọi là thể cách. Thể cách Ca Trù vừa bao gồm làn điệu, vừa bao gồm các hình thức diễn xướng khác như múa, biểu diễn kỹ thuật nghề (đàn, trống). Trong 49 tài liệu Hán Nôm có liên quan đến Ca Trù được khảo sát trong có 8 bản mang tên Ca Trù Thể Cách. Các học giả Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề trong sách Việt Nam Ca Trù biên khảo cũng gọi là Các thể Ca Trù.
Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định Ca Trù là một bộ môn nghệ thuât lâu đời, độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt trong kho tàng ca nhạc của người Việt Nam. Ca Trù gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn chương, âm nhạc, tư tưởng, triết lý sống của người Việt. Do vậy nghiên cứu Ca Trù cũng là góp phần vào việc nghiên cứu các giá trị truyền thống trong văn hóa Việt Nam.
Ca Trù là một DI SẢN VĂN HÓA ĐẶC SẮC của Việt Nam. Đặc sắc ở sự phong phú làn điệu, thể cách, cả không gian, thời gian biểu diễn và phương thức thưởng thức; đặc sắc còn vì từ cội nguồn nó gắn bó mật thiết với lễ nghi, phong tục, với sinh hoạt cộng đồng. Ca Trù làm người ta nhớ tới những tao nhân mặc khách với lối chơi ngông, chơi sang, rất tinh tế và giàu cá tính sáng tạo của những danh nhân như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Tản Đà… Và cùng với đó là mối quan hệ giữa văn nhân (nhà thơ, nhà báo, họa sĩ) với Ả đào – mối quan hệ quan trọng nhất của lối thưởng thức Ca Trù. Bởi quá trình tham gia sinh hoạt Ca Trù là quá trình văn nhân sáng tạo, thể nghiệm và thưởng thức các tác phẩm của mình.
Sau năm 1945, trong một thời gian khá dài sinh hoạt Ca Trù vốn tao nhã và sang trọng trước đây đã bị hiểu lầm và đánh đồng với các sinh hoạt thiếu lành mạnh ở một số ca quán đô thị khiến cho xã hội chối bỏ và quyết loại sinh hoạt Ca Trù ra khỏi đời sống văn hóa. Ca Trù đã không được nuôi dưỡng và phát triển một cách tự nhiên, không được tôn vinh đúng mức, phải chịu tồn tại thiếu sinh khí và tàn lụi. Nhiều nghệ nhân, nghệ sĩ đã phải cố quên đi nghiệp đàn hát và giấu đi lai lịch của mình.
Khoảng chục năm trở lại đây dư luận xã hội và các cơ quan thông tấn báo chí đã từng lên tiếng về nguy cơ thất truyền của Ca Trù. Nguy cơ mai một dần và vĩnh viễn mất đi Ca Trù là một nguy cơ có thực, đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn Ca Trù như một vốn quý văn hóa của dân tộc. Do vậy việc cung cấp những hiểu biết sâu hơn và có căn cứ về một số vấn đề của Ca Trù, không những góp phần đáp ứng yêu cầu cấp thiết ấy mà còn góp phần vào việc phục hồi và chấn hưng nghệ thuật và sinh hoạt Ca Trù.