Tiểu sử nghệ sĩ Bạch Tuyết

Đôi nét về tiến sĩ cải lương đầu tiên của Việt Nam

Nghệ sĩ Bạch Tuyết tên thật là Nguyễn Thị Bạch Tuyết, sinh 24 tháng 12 năm 1945 tại làng Khánh Bình, Châu Ðốc (nay thuộc xã Khánh An, huyện An Phú), tỉnh An Giang). Từ thuở còn đi học đã bộc lộ năng khiếu ca, ngâm, thường được các thầy cô đưa lên trình diễn trong những đêm văn nghệ.


Nữ nghệ sĩ cải lương danh tiếng Bạch Tuyết

Mồ côi mẹ năm 9 tuổi (1955), và bắt đầu đi hát ở những nhà hàng ca nhạc bằng những bài tân nhạc như “Nắng đẹp miền Nam”, “Làng tôi”, “Tiếng còi trong sương đêm”…

Cũng như những bạn cùng lứa, Bạch Tuyết rất hâm mộ nghệ sĩ Thanh Nga. Trong một lần gặp gỡ, nghệ sĩ Thanh Nga nhận xét rằng Bạch Tuyết rất có khiếu hát cải lương, lời khích lệ đó là một trong những động lực đưa bà đến với nghiệp hát xướng.

Nghệ sĩ Bạch Tuyết – Ảnh: Nguồn Internet
Năm 1960, Bạch Tuyết vào học trường nội trú của các ma-sơ Công giáo, thời gian này bà giao du học hỏi với nhiều nghệ sĩ, trong đó có soạn giả Điêu Huyền. Nhờ đó tên tuổi của bà dần được xuất hiện trên các đài phát thanh, trên báo chí. Điêu Huyền nhận bà làm con nuôi, cho gia nhập đoàn Kiên Giang, sự kiện này giúp đỡ bà rất nhiều trong bước đường sau này.

Bạch Tuyết với nhiều vai diễn để đời

Năm 1961, đoàn Kiên Giang diễn vở “Lá thắm chỉ hồng”, cô đào chính tới trễ, khiến Bạch Tuyết bất ngờ được giao vai cô lái đò Lệ Chi, diễn xuất của bà khiến khán giả hết sức ngạc nhiên. Sau đó là những vở “Kiếp chồng chung”, “Suối mơ rền áo cưới”… Bà được Út Trà Ôn mời về đoàn Thống Nhất, với vở “Tiếng hát Muồng Tênh”, tên tuổi bà bắt đầu nổi.

Tuy đi hát, nhưng bà lại rất thích đi học. Đang hát và nổi tiếng với Đoàn Thống Nhất, thì bà nghỉ nửa năm để ôn thi Tú Tài. Sau này, bà cũng nhiều lần đang hát thì nghỉ ngang như thế, để đi học.

Tiến sĩ nghệ thuật cải lương đầu tiên của Việt Nam
Cuối năm 1962, bà vào đoàn Bạch Vân. Năm sau được nhận giải Thanh Tâm cho diễn viên triển vọng.

Năm 1964, bà về hát cho đoàn Dạ Lý Hương, hợp tác với các soạn giả danh tiếng bấy giờ là Hà Triều – Hoa Phượng, tài năng của bà càng được khẳng định. Năm sau, vở “Tần Nương Thất” đã mang lại cho bà huy chương vàng giải Thanh Tâm cho nghệ sĩ xuất sắc.

Năm 1966, Hùng Cường gia nhập đoàn Dạ Lý Hương, cùng với Bạch Tuyết tạo thành 1 cặp đôi hoàn hảo trong mắt khán giả. Bà ở lại đoàn Dạ Lý Hương thêm 2 năm nữa.

Sau năm 1968, tình hình chiến tranh lan rộng, bà ngừng hát một thời gian. Đến năm 1971, cùng với Hùng Cường, mở gánh hát Hùng Cường – Bạch Tuyết (sau này đổi thành Đoàn ca kịch Bạch Tuyết), diễn các vở kinh điển như: “Trăng Thề Vườn Thúy“, “Má Hồng Phận Bạc”, “Cung Thương sầu nguyệt hạ“. Gánh hát này được rất đông người hâm mộ, tuy nhiên do không biết cách quản lý, sau 1 thời gian đã ngưng hoạt động. Sau đó bà chuyển sang học Luật.

Bạch Tuyết được tôn danh NSND

Năm 1985 (40 tuổi), Bạch Tuyết bước vào giảng đường đại học và có được bằng Cử nhân Ngữ văn.

Năm 1988, được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú, cũng năm này bà tốt nghiệp khoa đạo diễn ở Viện hàn lâm Sân khấu và Điện ảnh tại Sofia – Bulgaria.

Năm 1995, bà bảo vệ luận án Tiến sĩ với đề tài “Sự thích nghi của nghệ thuật sân khấu dân tộc cổ truyền của các quốc gia Đông Nam Á”, trở thành tiến sĩ nghệ thuật Cải lương đầu tiên của Việt Nam.

Năm 2012, bà được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân ở lần xét duyệt thứ 7 (năm 2011)

Những vai diễn đáng nhớ

Thái hậu Dương Vân Nga
Lệ Chi trong vở “Lá thắm chỉ hồng
Loan trong vở “Đoạn tuyệt
Cô Lựu trong vở “Đời cô Lựu
Trường An trong vở “Tuyệt tình ca
Tần nương trong vở “Tần Nương Thất
Lý Chiêu Hoàng trong vở “Lý Chiêu Hoàng
An Tư trong vở “Thượng hoàng Trần Nhân Tông
Kiều Nguyệt Nga trong vở “Lục Vân Tiên
Bà Xinh trong vở “Nguyệt Khuyết
Bà Hạnh trong vở “Tóc mai sợi vắn

CD, băng nhạc
Kim Vân Kiều
Kinh Pháp Cú
Đức Phật Thích ca
Kiều Nguyệt Nga
Đời cô Lựu
Thái hậu Dương Vân Nga
Mùa thu lá bay

Các bài tân cổ giao duyên, vọng cổ

Tình ca đất phương Nam
Núm ruột quê hương
Tình sầu
24 giờ phép
Tình ca quê hương
Đau xót lý chim quyên (Tân nhạc: Vũ Đức Sao Biển)
Lối mộng thiền xưa
Thương màu áo lam
Miền nhớ
Chuyến tàu hoàng hôn (Tân nhạc: Hoài Linh, Minh Kỳ)
Bạch Thu Hà (Tác giả: Viễn Châu)
Bông hồng cài áo
Thêu áo như lai
Dương Quý Phi (Tác giả: Viễn Châu)
Đêm Gành hào nghe điệu hoài lang (Nhạc: Vũ Đức Sao Biển)
Dạ cổ hoài lang (Tác giả: Cao Văn Lầu)

Bài tân nhạc do bà viết lời vọng cổ

Bông hồng cài áo
Thêu áo như lai
Thương màu áo lam
Miền nhớ
Tình ca đất phương Nam
Chuyến tàu hoàng hôn
Mưa nửa đêm
Tình ca quê hương
Chuyến tàu hoàng hôn
Đau xót lý chim quyên
Trăng về thôn dã

Những phim tham gia

Như hạt mưa sa (1971)
Như giọt sương khuya (1972)
Lan và Điệp
Con ma nhà họ Hứa (1973)

Thông tin về đời tư

Bà từng tìm cách quyên sinh 3 lần nhưng bất thành.
Bà từng quy y Tam bảo Phật giáo với pháp danh Diệu Lộc.
Bà kết hôn lần đầu tiên với danh thủ bóng đá Phạm Huỳnh Tam Lang năm 1967. Cuộc hôn nhân tan vỡ năm 1974 vì lý do riêng tư. Hai người không có con chung. Cho đến mãi về sau này 2 người đều dành cho nhau những lời tốt đẹp.
Sau khi ly dị, cũng ngay trong năm 1974, bà lập gia đình lần thứ 2 với ông Charles Đức, một Việt kiều quốc tịch Pháp. Ông bà có với nhau một người con trai tên là Bảo Giang Valery Bauduin, hiện đang công tác ở Mỹ.