Tiểu sử nghệ sĩ nhân dân Lệ Thủy

Cuộc đời và sự nghiệp của”  cô đào ngoại hạng ” Lệ Thủy

Bà tên thật là Dương Thị Lệ Thủy, về sau đổi thành Trần Thị Lệ Thủy, sinh ngày 20 tháng 05 năm 1948 trong một gia đình nông dân nghèo tại làng Đông Thành, huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long. Gia đình bà có 8 chị em, trong đó bà là chị cả.

Do cuộc sống khó khăn, từ nhỏ, bà đã theo gia đình lên Sài Gòn để mưu sinh. Năm 10 tuổi, nghệ sĩ nghiệp dư là Tư Long làm ở ban văn nghệ xóm bên tình cờ nghe bà ca vọng cổ, đã mời bà tham gia và gửi theo học ca cổ với thầy Năm Truyền làm thợ hớt tóc ở Khánh Hội. Sau đó, Lệ Thủy được gửi sang học bài bản cải lương 3 Nam, 6 Bắc với nhạc sĩ Tám Đen. Lúc đó các em của Lệ Thủy liên tục đau ốm, gia đình nợ nần tứ phía. Không tiếp tục đến trường được do không có khai sinh, Lệ Thủy đã phải làm việc sớm để phụ giúp gia đình và quyết, Lệ Thủy đã phải làm việc sớm để phụ giúp gia đình và quyết định xin đi theo làm việc ở gánh Trâm Vàng (Biên Hòa, Đồng Nai) để đỡ gánh nặng cho ba má.

                                                                               NSND Lệ Thủy

Với bài ca cổ Cô gái bán đèn hoa giấy, đầu tiên qua việc ngâm thơ hậu trường, đóng những vai kép con trên sân khấu… 13 tuổi, Lệ Thủy thế vai kép con trên đoàn Trâm Vàng, 14 tuổi, Lệ Thủy đóng các vai đào nhì. Một thời gian sau, Lệ Thủy rời Trâm Vàng để về Công ty Kim Chung của ông bầu Trần Viết Long, một đại bang có 7 đoàn hát. Tại sân khấu này Lệ Thủy đã được soạn giả Ngọc Văn nhận làm con nuôi, ông viết nhiều kịch bản đưa Lệ Thủy vào đóng từ vai phụ cho đến vai chính .

Sau những bước đi đầu tiên tạo được ấn tượng, ông bầu Trần Viết Long lập đoàn Kim Chung 3. Lệ Thủy chuyển sang đây diễn chung với nghệ sĩ Thanh Hải trong vở “Bẽ bàng duyên mới” của soạn giả Ngọc Văn. Tên tuổi của Lệ Thủy bắt đầu nổi lên, trở thành cô đào chính sáng giá lúc vừa tròn 15 tuổi.

                                                        NSND Lệ Thủy cùng NSUT Minh Vương

Sau đó, Lệ Thủy hát ở đoàn Kim Chung 5, tại đây Lệ Thủy đóng cặp với Minh Phụng tạo thành cặp đào – kép ăn ý, được báo chí thời đó phong tặng là cặp “Bão biển” vì mang lại doanh thu cao cho đoàn qua các vở Xin một lần yêu nhau, Đêm lạnh chùa hoang, Kiếp nào có yêu nhau

Năm 1975, Lệ Thủy gắn bó với Đoàn văn công Thành phố Hồ Chí Minh qua các vở diễn Cây sầu riêng trổ bôngTiếng sóng Rạch GầmKhi bình minh trở lại

Tháng 2 năm 1984, Lệ Thủy được vinh dự tham gia Đoàn nghệ sĩ lưu diễn Tây Âu cùng với nghệ sĩ Bạch Tuyết, Diệp Lang, Ngọc Giàu, Minh Vương… với các vở diễn Đời cô LựuCâu thơ yên ngựa… Báo chí thời đó gọi là “đem chuông đi đánh xứ người” đầu tiên sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Sau chuyến đi về, các nghệ sĩ trong đoàn đã hợp lại và thành lập nên Đoàn nghệ thuật 2-84. Vở Tô Ánh Nguyệt và Đời cô Lựu là hai vở tuồng khai trương cho đoàn 2-84. Ở sân khấu này, Lệ Thủy đã diễn các vở tuồng Tô Ánh NguyệtÁo cưới trước cổng chùa, Trắng hoa maiKiếp chồng chungLôi vũ

Những năm đầu 1990 Lệ Thủy chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực video cải lương. Một số vở cải lương từng gắn với tên tuổi nghệ sĩ Lệ Thủy khi hát ở đoàn Kim Chung 5 trước năm 1975 cũng được quay video như Đêm lạnh chùa hoangTây ThiMáu nhuộm sân chùa, Kiếp nào có yêu nhauBăng Tuyền nữ chúa,…. Sau thập niên 1990, nghệ sĩ Lệ Thủy đi lưu diễn thường xuyên ở các tỉnh miền Tây, các vùng sâu, đem tiếng hát của mình gần hơn với khán giả nông thôn.

                                                    “Cô đào ngoại hạng” của sân khấu cải lương

Sân khấu cải lương ngày càng gặp nhiều khó khăn. Bà cùng Diệp Lang và Minh Vương thành lập chương trình Những dấu ấn không phai trực thuộc Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang quy tụ các nghệ sĩ tham gia biểu diễn các vở tuồng kinh điển ngày xưa. Các vở diễn của chương trình như Giấc mộng đêm xuânTình mẫu tửMột ngày làm vuaĐêm giao thừa… Năm 2008, chương trình được hoạt động với tên gọi là nhóm xã hội hóa “Sân khấu vàng” trực thuộc Nhà hát Trần Hữu Trang nhằm tập hợp các nghệ sĩ tham gia biểu diễn đồng thời doanh thu từ chương trình dành vào cho hoạt động xây tặng nhà tình thương. Đến nay, “Sân khấu vàng” do Lệ Thủy và Minh Vương thành lập đã dựng các vở diễn như Sông dàiLá sầu riêngMột ông hai bàĐêm lạnh chùa hoang… và đã trao tặng hơn 30 căn nhà tình thương cho các gia đình khó khăn.

Hiện tại, Lệ Thủy vẫn cộng tác thường xuyên với Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang trong các chương trình biểu diễn phục vụ công chúng và tham gia đi show ở các tỉnh thành.

Các nam nữ nghệ sĩ mà Lệ Thủy đã hát, diễn chung: Minh Vương, Minh Phụng, Út Bạch Lan, Thanh Tuấn, Bạch Tuyết, Phượng Liên, Thanh Sang, Bảo Quốc, Thanh Ngân, Phượng Hằng, Trọng Hữu, Minh Cảnh, Tấn Tài, Huyền Trang, Phi Nhung, Diệp Lang, Thanh Kim Huệ, Ngọc Giàu, Trọng Phúc, Mỹ Châu,…

Danh hiệu, giải thưởng

  • Giải Thanh Tâm (năm 1964) cùng với Thanh Sang, Lệ Thủy cũng là nữ nghệ sĩ trẻ nhất đoạt giải này sau 10 lần tổ chức.
  • Giải Kim Khánh (1974)
  • Giải A1 Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc (1980).
  • Nghệ sĩ được yêu thích nhất năm 1989, hạng nhất với 4565 phiếu bầu chọn của độc giả báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
  • Danh ca vọng cổ được yêu thích nhất năm 1990, hạng 2 (sau Minh Vương) do báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
  • Nghệ sĩ được yêu thích nhất năm 1990, hạng 4 với 2664 phiếu bầu chọn của độc giả báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
  • Giải Đôi nam – nữ diễn viên cải lương được yêu thích nhất năm 1992 (cùng Minh Vương), với 7993 phiếu bầu chọn do báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
  • Nghệ sĩ đóng Video cải lương được yêu thích nhất năm 1992, hạng nhì trong top 10 (xếp sau Vũ Linh) với 4286 phiếu bầu chọn của đọc giả báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
  • Danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú đợt 3 năm 1993.
  • Kỷ lục Guinness Việt Nam 2008 cho Đôi bạn diễn lâu năm và ưng ý nhất (cùng Minh Vương).
  • Giải Mai vàng cho hạng mục Nữ diễn viên cải lương được yêu thích nhất do báo Người lao động tổ chức năm 2008 và 2009
  • Danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân đợt 7 năm 2012.
  • Giải thưởng truyền hình HTV Awards 2013 cho Nữ nghệ sĩ cải lương được yêu thích nhất.

Gia đình

Năm 1973, Lệ Thủy lập gia đình với một cử nhân kinh tế và đến nay đã có ba con. Người con trai thứ hai của bà sau khi tốt nghiệp đại học ở Úc đã về Việt Nam làm ca sĩ với nghệ danh Dương Đình Trí. Năm 2009, Dương Đình Trí tổ chức liveshow Bước chân hai thế hệ nhân dịp sinh nhật lần thứ 61 của mẹ mình.

                                                  NSND Lệ Thủy và con trai Dương Đình Trí

Nhận xét

Soạn giả Viễn Châu nhận xét: “Lệ Thủy có một giọng ca hiếm hoi trong làng cổ nhạc, với chất giọng kim pha thổ, đã từng được báo giới Sài Gòn trước đây phong tặng là giọng ca chuông ngân“. Năm 1964, khi soạn giả Viễn Châu kết hợp tân nhạc và cổ nhạc để tạo nên bản tân cổ giao duyên, ông đã chọn giọng ca Lệ Thủy thể hiện cho thử nghiệm này với bài hát Chàng là ai.

Diệp Lang nhận xét Lệ Thủy là “cô đào ngoại hạng” của sân khấu cải lương.

Một số tác phẩm tân cổ nổi danh

  • Áo mới Cà Mau (Tân nhạc: Thanh Sơn; cổ nhạc: Viễn Châu)
  • Bạch Thu Hà (Tác giả: Viễn Châu)
  • Bánh bông lan (Tác giả: Quế Chi – Viết Chung)
  • Bìm bịp kêu
  • Bông bí vàng (Nhạc: Bắc Sơn; lời vọng cổ: Dương Đình Trí)
  • Bức tranh hòa bình (Tân nhạc: Phạm Thế Mỹ; cổ nhạc: Loan Thảo)
  • Cánh thiệp đầu xuân (Nhạc: Lê Dinh – Minh Kỳ; lời vọng cổ: Hoàng Song Việt)
  • Cau Hà Châu têm trầu Xuân Mỹ
  • Cha ơi (Sáng tác: Dương Đình Trí)
  • Chàng là ai? (Tác giả: Viễn Châu)
  • Chiều lên bản Thượng
  • Chuyến tàu hoàng hôn (Nhạc: Hoài Linh – Minh Kỳ; lời vọng cổ: Loan Thảo)
  • Chuyện tình nàng Buram
  • Chuyến xe cuối tuần (Tác giả: Viễn Sơn)
  • Cô bán đèn hoa giấy (Tác giả: Quy Sắc)
  • Cô gái bán sầu riêng (Tác giả: Viễn Châu)
  • Cô gái Đồ Long
  • Cô hàng chè tươi
  • Con gái của mẹ (Tân nhạc: Giao Tiên; cổ nhạc: Loan Thảo)
  • Cơn mê tình ái
  • Còn tìm đâu nữa
  • Còn tìm đâu nữa
  • Đêm trao kỷ niệm
  • Dòng sông quê em (Tân nhạc: Trương Quang Lục; cổ nhạc: Huyền Nhung)
  • Đường về hai thôn
  • Duyên quê
  • Duyên tình
  • Em bé đá
  • Em bé đánh giày (Tác giả: Thu An)
  • Em thương người nghệ sĩ
  • Ga chiều
  • Gặp lại cố nhân
  • Giấc ngủ đầu nôi
  • Hái hoa
  • Hành trình trên đất phù sa (Tân nhạc: Thanh Sơn; lời vọng cổ: Dương Đình Trí)
  • Hát về sông Bé
  • Hoa trinh nữ
  • Hương cau quê ngoại
  • Khổ tâm
  • Lá sầu riêng (Nhạc: Hoàng Cầm – Nguyễn Chi; lời vọng cổ: Viễn Châu)
  • Lá trầu xanh (Tác giả: Viễn Châu)
  • Lan và Điệp (Sáng tác: Viễn Châu)
  • Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài
  • Lý chim quyên (Sáng tác: Loan Thảo)
  • Lý ngựa ô
  • Mất nhau rồi
  • Mẹ tôi (Tân nhạc: Nhị Hà; cổ nhạc: Đình Trí)
  • Mơ hoa (Nhạc: Hoàng Giác; lời vọng cổ: NSƯT Xuân Hỷ)
  • Mưa trên phố Huế
  • Nấu bánh đêm xuân (Sáng tác: Quy Sắc)
  • Ngày em về thăm quê tôi
  • Ngợi ca quê hương em (Nhạc: Thanh Sơn; lời vọng cổ: Đình Trí)
  • Nhất kiếm bá vương
  • Tấm ảnh không hồn
  • Thành phố buồn
  • Thương hoài ngàn năm (Sáng tác: Dương Đình Trí)
  • Thương màu áo lam (Tân nhạc: Vũ Ngọc Toản; cổ nhạc: Bạch Tuyết)
  • Thương nhau lý tơ hồng (Nhạc: Trương Quang Tuấn; lời vọng cổ: Viễn Châu)
  • Tiền và lá
  • Tình ca quê hương (Nhạc: Việt Lang; lời vọng cổ: Bạch Tuyết)
  • Tình đẹp mùa chôm chôm
  • Tình xuân (Tác giả: Hoàng Song Việt)
  • Trái tim Đồ Chiểu
  • Trăng tàn trên hè phố
  • Trên dòng sông Hậu
  • Ước nguyện đầu xuân
  • Về chung một mái nhà (Nhạc: Xuân Tiên – Y Vân; lời vọng cổ: Nguyễn Thiên Đặng)
  • Xe hoa cách biệt
  • Xin gọi nhau là cố nhân
  • Xuân đẹp làm sao (Tân nhạc: Thanh Sơn; cổ nhạc: Dương Đình Trí)

Ngoài ra, còn có các bài tân nhạc như

  • Miền Tây quê tôi (Cao Minh Thu)
  • Nỗi buồn mẹ tôi (Nhạc: Minh Vy)
  • Hồn quê
  • Thương lắm quê tôi
  • Tết miền Tây (Nhạc: Cao Minh Thu)

Các vai diễn

  • Đêm lạnh chùa hoang (vai Bảo Xuyên)
  • Kiếp nào có yêu nhau (vai Quế Minh)
  • Xin một lần yêu nhau (vai Hồ Như Thủy)
  • Mùa xuân ngủ trong đêm (vai Bạch Thiên Hương)
  • Tây Thi gái nước Việt (vai Tây Thi)
  • Tái sanh duyên (vai Mạnh Lệ Quân)
  • Quán khuya sầu viễn khách (vai Cam Thúy Nguyệt)
  • Mưa rừng (vai K’Lai)
  • Hoa Mộc Lan tùng chinh (vai Hoa Mộc Lan)
  • Lá trầu xanh (vai Thắm)
  • Dạ Xoa hoàng hậu (vai Chung Vô Diệm)
  • Tiêu Anh Phụng (vai Công chúa)
  • Cây sầu riêng trổ bông (vai Hạnh)
  • Tô Ánh Nguyệt (vai Nguyệt)
  • Đời cô Lựu (vai Kim Anh)
  • Tiếng trống Mê Linh (vai Trưng Nhị)
  • Nửa đời hương phấn (vai Diệu)
  • Lan và Điệp (vai Lan)
  • Vị đắng lá sầu đâu (vai Huệ)
  • Kiếp chồng chung (vai Hương)
  • Trắng hoa mai (vai Thiên Kiều)
  • Áo cưới trước cổng chùa (vai Xuân Tự)
  • Máu nhuộm sân chùa (vai Bạch Thiên Nga)
  • Người phu khiêng kiệu cưới (vai Cát Mộng Thiên Lan)
  • Dốc sương mù (vai Xuyên Đảo Phương Tử)
  • Lôi vũ (vai Lỗ Tứ Phượng)
  • Lá sầu riêng (vai Diệu)
  • Quán khuya sầu viễn khách (vai Thánh cô)
  • Hàn Mặc Tử (vai Mai Đình)
  • Cô gái Đồ Long (vai Chu Chỉ Nhược)