Tiểu sử nghệ sĩ nhân dân quan họ Thúy Cải

Tiểu sử:

Tên thật: Nguyễn Thúy Cải   sinh ngày  20/08/1953  quê quán tại xã Phật Tích, huyện Tiên Sơn, Hà Bắc  (nay là xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) mặc dù tuổi Quý Tỵ (1953) nhưng ít gian nan so với bạn bè. Nói tới Nghệ sĩ nhân dân Thúy Cảitrước hết phải nói tới cái duyên Quan họ. Duyên từ giọng nói miệng cười, duyên từ ánh mắt dáng đi, và nói không ngoa thì Thúy Cải có duyên ngay ở trong giọng hát. Với chất giọng mang đậm chất quê, hương cau, hương cải. Không biết vô tình hay hữu ý mà ngay từ buổi đầu bước chân vào nghệ thuật, Thúy Cải đã được gọi là chị hai, là người dẫn dắt Quan họ của một làng.

                                                                                            Thúy Cải được nhận xét có duyên từ trong giọng hát

Qúa trình hoạt động nghệ thuật:

Lên khoảng 6 – 7 tuổi chị đã biết hát giọng vặt, 12 tuổi tiếng hát của chị đã đủ sức làm say đắm lòng người.

Tháng 01/1969 đoàn Dân ca Quan họ được thành lập. Chị từng là Trưởng Đoàn dân ca Quan họ Bắc Ninh.

Ngày 20/05/1969, Thúy Cải (vừa 16 tuổi) Thúy Cải gia nhập Đoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh dù nghệ nhân Nguyễn Đức Siêu – khi ấy là Trưởng đoàn đi chọn diễn viên đã nhắm chị gái của Thúy Cải vì nhan sắc có phần trội hơn được tuyển vào đội Quan họ, trực thuộc đoàn nghệ thuật Hà Bắc, Thúy Cải là một trong những thành viên đầu tiên đoàn.

Thúy Cải đi văn công nhưng không hề nhàn nhã, sung sướng như mọi người vẫn tưởng. Ngày ấy, Trưởng ty Văn hóa Lê Hồng Dương có chủ trương khôi phục lại vốn quan họ cổ đang nằm trong 49 làng quan họ, Thúy Cải cùng các bạn trong Đoàn xuống tận các làng để học các nghệ nhân. Ban ngày, các nghệ nhân làm gì, các nghệ sĩ cũng xắn tay vào làm, từ nhổ mạ, cấy lúa, hái dâu… để rồi khi đêm xuống, công việc tạm hết, các nghệ nhân mới truyền dạy hát. Làm lụng vất vả, ăn uống lại kham khổ nên mỗi lần về nhà, bà con hàng xóm lại kêu đi văn công gì mà gầy đen hơn ở nhà. Thế nhưng, ngày ấy, chẳng ai thấy mệt, thấy khổ. Vui sướng nhất là mỗi ngày lại học thêm được làn điệu mới. Thành quả của chục năm gian khổ ấy là hơn 200 làn điệu quan họ được khôi phục với hơn 500 bài hát đối. Các nghệ sĩ vừa khôi phục vừa tuyên truyền tình yêu quan họ đến với người dân. Đoàn không có ôtô, các nghệ sĩ ban ngày phải trực tiếp xắn quần đẩy xe bò chở loa đài xuống từng thôn, xã.

Năm 1982, Thúy Cải lần đầu tiên được cùng NSND Thanh Hoa, nghệ sĩ Ái Vân… đi biểu diễn ở nước ngoài. Kết thúc tiết mục rồi mà khán giả vẫn vỗ tay vang dội khiến các nghệ sĩ phải ra chào tới 3 lần. Hay có lần mang dân ca quan họ sang Nhật Bản, ảnh nghệ sĩ Thúy Cải trong trang phục liền chị được treo rất to bên đường khiến Thúy Cải vô cùng hãnh diện.

Năm 1988, Thúy Cải được nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú  trong đợt phong tặng đầu tiên và từng được từng vinh dự nhận Huân chương Lao động Hạng Nhất, cùng đợt còn có các nghệ sĩ nổi tiếng Thanh Hoa, Thu Hiền được phong tặng.

Năm 1992, chị được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa IX (1992-1997).

Năm 1996 đến 2008, Thúy Cải  làm Trưởng đoàn Dân ca Quan họ.

Năm 2008, nghỉ hưu.

Năm 2015, bà được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân.

 

                          NSND Thúy Cải 40 năm gắn bó với nghề quan họ                   

40 năm trong nghề, ngoài giọng hát quan họ say đắm lòng người, NSND Thúy Cải còn là một Trưởng đoàn hết lòng vì quan họ. 18 năm ở cương vị Trưởng đoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh (từ 1996 – 2004), nghệ sĩ Thúy Cải không chỉ nỗ lực để anh chị em trong đoàn có thể sống tốt bằng nghề mà còn cố gắng để quan họ đến được với nhiều vùng quê trong cả nước. Bà đôn đáo mang quan họ vào phía Nam gây dựng nhóm hát dân ca “Mười nhớ”. Chưa kể nhiều lần bà đi nói chuyện ở các trường đại học để lớp trẻ hiểu và yêu quan họ. Việc UNESCO công nhận quan họ là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại có công rất lớn của người nữ Trưởng đoàn xông xáo này. Cả đời gắn bó với quan họ, giờ đây, nhiều lúc trong những giấc ngủ chập chờn buổi trưa, bà vẫn mơ thấy mình đang hát quan họ.

                                                                   NSND Thúy Cải và NSUT Hoài Linh

Gia đình:

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có mẹ từng là một nghệ nhân dạy quan họ có tiếng thời ấy. Thúy cải được ảnh hưởng quan họ rất nhiều từ mẹ,

Hiện tại tổ ấm nhỏ của NSND Thúy Cải: gia đình có hai cô con gái, cả hai đã tốt nghiệp đại học, có việc làm ổn định và đều đã xây dựng gia đình. Còn chồng chị, anh cũng công tác trong Đoàn quan họ Bắc Ninh. Có những khi chị phải xa nhà hàng tháng trời, chồng chị đã phải giữ chức vụ vừa làm cha, vừa làm mẹ để chăm lo dạy dỗ cho các con, lo lắng mọi việc trong gia đình để chị có nhiều thời gian dành cho nghệ thuật, theo đuổi những đam mê của mình. Nhiều lần chị đi diễn về, mệt lả, đến nhà chị nằm lăn ra ngủ ngay, không biết gì. Từ không biết nấu ăn, dần dần anh đã thành thục và trở thành người nội trợ giỏi của gia đình, những cô con gái của chị chủ yếu học nội nợ từ bố…

Gần 40 năm trong nghề cũng ngần ấy thời gian anh đưa chị đi rồi đón chị về. Giờ nghĩ lại, nào là trên chiếc xe đạp cà tàng, rồi xe máy xịn… và gần đây là ô tô, chị không còn nhớ được hết có bao nhiêu đời xe mà anh đã đưa đón chị nữa. Lúc nào anh cũng ở bên, động viên chị. Rồi các con chị cũng ngoan ngoãn chăm chỉ học, phụ việc nhà với bố, để chị yên tâm công tác.

Chị Ngọc Lương ( con gái nghệ sĩ Thúy Cải) thì bảo, tuổi thơ của 2 chị em gắn liền với ông bà vì mẹ đi biểu diễn công tác liên miên.

Nhìn vợ chồng nghệ sĩ Thúy Cải ân cần chăm sóc nhau mới thấy đó là cuộc sống mà bất kỳ người phụ nữ nào cũng mơ ước. Trong suốt buổi trò chuyện, NSND Thúy Cải luôn tâm niệm: Nếu không có chồng con, mình không làm được gì hết. Học cùng nhau ở Trường Văn hóa nghệ thuật tỉnh Bắc Ninh rồi sau này công tác cùng đoàn, vợ chồng nghệ sĩ Thúy Cải luôn cùng nhau trong mọi hành trình. Bà cười vui, tính ra ông chở bà đi diễn hỏng tới 8 cái xe đạp và 2 cái xe máy. Khi nghệ sĩ Thúy Cải – ngoài việc là Trưởng Đoàn Quan họ Bắc Ninh còn tham gia Hội đồng nhân dân tỉnh, là đại biểu Quốc hội (khóa IX) – nghĩa là công việc rất bận rộn thì chồng bà đã tình nguyện lo lắng việc nhà cửa, con cái cho bà yên tâm công tác.

NSND Thuý Cải tự hào khi là một trong những viên gạch đầu tiên đặt nền móng đưa quan họ Việt Nam ra với thế giới. Trên sân khấu, Thúy Cải đằm thắm, dịu dàng và lúng liếng như thế nào thì ở ngoài đời, đằm thắm, dịu dàng và lúng liếng như thế. Thậm chí giữa đời thường mộc mạc, giản dị, cái chất nồng nàn, tình tứ trong người phụ nữ ấy dường như không có tuổi. Cô gây ấn tượng với người đối diện ở nụ cười “như mùa thu tỏa nắng”.

NSƯT Quý Tráng, người bạn diễn nhiều năm của NSND  Thúy Cải đã nói: “Quan họ sinh ra là để dành cho Thúy Cải, như một bông hoa nguyên chất không cần cấy ghép”.

Dù đã đến tuổi nghỉ hưu, nhưng chỉ rời xa sân khấu một thời gian ngắn, Thúy Cải đã thấy nhớ nao lòng những canh hát giao duyên. Nghệ sỹ chia sẻ: “Có những buổi trưa, chỉ mới chợp mắt, hình ảnh của những ngày xưa khi còn vào nhà nghệ nhân lao động để được học hát lại ùa về trong giấc mơ tôi. Sau nhiều lần giật mình tỉnh giấc, tôi nghĩ rằng hình như với quan họ, mình vẫn còn duyên, mà đã là duyên thì không thể lẩn trốn được. Đam mê đã ngấm vào máu thịt và nó không có tuổi bao giờ”.

Luôn cảm thấy mình may mắn vì có một hậu thuẫn vững chắc là gia đình, nghệ sỹ cho biết: “Nếu không có mẹ chồng và chồng gánh đỡ công việc nhà thì tôi không thể hết lòng với quan họ được. Tôi biết nhiều người bạn nghệ sỹ của mình có cuộc sống riêng tư đầy trắc trở. Tuy nhiên với cô thì ngược lại “dù có lúc thăng hoa trên sân khấu nhưng không bao giờ quên phép tắc, gia phong và giữ gìn chính mình trong lề lối nghiêm ngặt của người quan họ”. Bởi thế, cô có một cuộc sống đầm ấm hạnh phúc nhiều người mơ ước.

Những làn điệu quan họ đã thể hiện:

Nguồn: Báo Bắc Ninh, New- zing.com

Tiểu sử Nghệ sĩ nhân dân quan họ Thúy Hường

Đôi nét về tiểu sử nghệ sĩ nhân dân quan họ Thúy Hường

Thúy Hường sinh ngày 01 tháng 05 năm 1967 ở xã Cách Bi, Quế Võ, Bắc Ninh. Học hết cấp 3, Hường nộp hồ sơ xin vào trường Sư phạm mẫu giáo như ý nguyện của gia đình nhưng vẫn âm thầm dự thi vào khoa âm nhạc trường Trung cấp  Văn hóa – Nghệ thuật Hà Bắc năm 1984. Giọng hát tự nhiên mộc mạc như khi ngồi trên con đê quê hương hát cùng bạn bè, nhưng lại đầy sức sống và quyến rũ, đã thuyết phục được Ban giám khảo kỳ thi năm đó. Thế là Thúy Hường vào học Trường Văn hóa Nghệ thuật Hà Bắc. Sau khi tốt nghiệp Thúy Hường về Đoàn Dân ca Quan họ. Môi trường ấy đã giúp Hường không ngừng trưởng thành trên bước đường nghệ thuật. Số bài hát “lận lưng” của mẹ và dì truyền cho năm nào, nay đã được nhân lên gấp đôi mươi lần.

Hường mê dân ca từ bé. Niềm đam mê đó được bắt nguồn từ người mẹ của Hường. Bà có một chất giọng rất hay và vang như chuông. Từ nhỏ, Hường đã được nghe mẹ ru, mẹ hát rất nhiều và các làn điệu dân ca ấy cứ thấm dần và thấm đẫm vào mình như thế.

 

NSND Thúy Hường và NSND Thúy Cải

Đối với Hường nghệ thuật nói chung thì tình yêu bắt nguồn từ niềm đam mê, bên cạnh đó cần có một chút năng khiếu bẩm sinh nhưng quan trọng là sự phấn đấu và vươn lên không ngừng của người nghệ sĩ. Tình yêu Dân ca Quan họ trong Hường cũng được khơi theo dòng mạch ấy và cứ nhân lên, say cháy, lớn dần theo năm tháng.

 

Hường yêu tất cả những gì thuộc về Quan họ và Hường coi Dân ca Quan họ là lẽ sống của đời mình. Cũng nhờ Dân ca Quan họ Bắc Ninh mà tên tuổi của Hường được công chúng biết đến, được tin yêu và định vị bền vững trong lòng khán giả.

                                     Với NSND Thúy Hường quan họ đã ngấm vào máu

– Tháng 07/1987 là diễn viên Đoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh

– Từ 1987 đến nay gặt hái được 8 HCV cá nhân tại các hội diễn, liên hoan nghệ thuật chuyên nghiệp trong và ngoài nước.

– Năm 2001: được phong tặng danh hiệu NSƯT

– Năm 2012: được phong tặng danh hiệu NSND

– Đầu năm 2012: chuyển công tác về làm giảng viên thuộc khoa Dân ca Quan họ tại Trường Trung cấp Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh.

Thúy Hường đã nhiều lần đem hát quan họ đi nước ngoài trình với quan khách gần xa. Nhưng nhớ lần tháp tùng Thương nhớ đồng quê đi dự Liên hoan phim ba châu lục Nantes (Pháp), LHP quốc tế Apsara (Cambodia), khán giả nước ngoài, Việt kiều tán thưởng vì đã được xem bộ phim hay về làng quê Việt Nam và hỏi cảnh thôn quê ấy còn như trong phim không, thế là Thúy Hường tranh thủ tiếp thị luôn: “Làng quê Việt Nam còn đẹp hơn thế nữa. Nếu muốn biết thêm thì xin mời quý vị sang thăm Việt Nam” và tặng thêm bài quan họ.

Gia đình:

Thúy Hường một trong những người phụ nữ rất “thuần Việt” rất tự tin trong một vẻ đẹp cũng rất tự nhiên mà tạo hóa ban cho. Hiện tại NSND Thúy Hường có một cậu con trai,  ông xã là bộ đội đã nghỉ mất sức. Thỉnh thoảng cũng đi lưu diễn cùng vợ. Thúy Hường cảm thấy thoải mái, hạnh phúc và bình yên với cuộc sống hiện tại.

Các Album

Đến nay, Thúy Hường cũng góp mặt khá nhiều CD quan họ cùng liền anh, liền chị khác, nhưng chị mới ra riêng một VCD của Hồ Gươm Audio.

Người ở đừng về
Gửi bức thư sang
Lúng liếng
Có ai xuôi về
Đào nguyên
Đêm qua nhớ bạn
Nhớ mãi khôn nguôi
Cắp nón đón đò
Bạn tình ơi
Lòng vẫn đợi chờ
Lý giao duyên
Một mình một bóng
Cây trúc xinh
Tìm người…

Khi nhìn Thúy Hường chít khăn mỏ quạ, mặc áo “mớ bảy mớ ba” thì tự nhiên  toát ra những làn điệu Quan họ cổ. Nào là: “Cây trúc xinh”, “Hoa thơm bướm lượn”, “Người ở đừng về”, “Lúng liếng”, “Nhớ mãi khôn nguôi”, “Bạn tình ơi”, “Lòng vẫn đợi chờ”, “Đêm qua nhớ bạn”. Tố chất của Quan họ, kỹ thuật hát “vang, rền, nền, nẩy” bằng sự nỗ lực học tập kiên trì rèn luyện của bản thân đã tạo nên một NSND Thúy Hường như ngày nay.

Thúy Hường đã hát trên sóng phát thanh, trên Đài Truyền hình và đã lưu diễn khắp nơi trong và ngoài nước. Rất nhiều thư của thính giả gửi về Đài TNVN đã chứng minh cho sự yêu mến giọng hát Quan họ của chị.

Bên cạnh hát Quan họ, điện ảnh cũng đến với Thúy Hường như một mối tơ duyên nhiều may mắn.

Phim ảnh:

Mặc dù Chưa từng học một ngày về diễn xuất nhưng gia tài điện ảnh với 3 vai diễn cũng đủ để nhiều diễn viên chuyên nghiệp mơ ước.

                                              Thúy Hường trong vai Ngữ “Thương Nhớ đồng quê”

  • Tần trong “Ngã ba Đồng Lộc
  • Di trong “Đầm hoang
  • Ngữ trong “Thương nhớ đồng quê

Để tìm ra Ngữ – người phụ nữ thôn quê mộc mạc, mòn mỏi chờ chồng (phim Thương nhớ đồng quê), phó đạo diễn Nhuệ Giang đã đi nhiều đoàn nghệ thuật và cuối cùng Thúy Hường được chọn. “Lần đầu đóng phim, nên ngẫm lại thấy nhiều cái ngơ ngác, ngớ ngẩn lắm”. Chẳng hạn việc khóc. Tính Thúy Hường vốn hài hước. Hôm ấy, đang kể chuyện tiếu lâm với đồng nghiệp, không hề biết đạo diễn đang suy tư nên bị “quạt” rồi bắt vào quay ngay. Hôm khác thì tập đến 12 h đêm mà vẫn chưa khóc được cảnh về nhà mẹ đẻ khóc vì bị chồng ruồng rẫy, bỏ đi biền biệt, đạo diễn bảo soi gương thì thấy mặt mày đen nhẻm, xấu quá (vì bình thường mặc trang phục quan họ phải đẹp hơn) đã …tủi thân rồi, lại NSƯT Hoàng Yến đóng vai mẹ đẻ lại cứ tỉ tê kể chuyện cảm động, thế là… xuống bếp khóc luôn. Đạo diễn bảo quay thử, nhưng sau lấy luôn làm cảnh quay thật vì quá đạt.

Ngoài vẻ hình thể khỏe khoắn, đầy nắng gió của một cô gái đồng quê thì cách diễn chân thực, dung dị đã tạo nên một Thúy Hường rất riêng trong điện ảnh. Vẫn tham gia làm phim, chứ Thúy Hường “không bao giờ bỏ quan họ, kể cả thành công lớn hơn với điện ảnh. Với nghệ sĩ Thúy Hường, điện ảnh là giấc mơ đẹp. Nhưng nếu theo điện ảnh từ đầu thì đâu có một Thúy Hường như ngày nay  Quan họ ngấm vào máu.

 

Tiểu sử giọng ca sầu nữ nổi tiếng Út Bạch Lan

Tiểu sử giọng ca sầu nữ nổi tiếng Út Bạch Lan

Út Bạch Lan (1935 – 2016) tên thật là Đặng Thị Hai là nghệ sĩ cải lương ưu tú. Sinh năm 1935 tại ấp Lộc Hóa, xã Lộc Giang, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Bà được mệnh danh là giọng ca sầu nữ nổi tiếng lúc thời bấy giờ.

Bà sinh ra trong gia đình nghèo khó, sự khởi nghiệp bà cùng danh cầm Văn Vĩ. Nhờ nhân duyên mẹ của 2 người sống trong trạm gác cũ, kết nghĩa chị em hai. Văn Vĩ đánh đàn, bà hát, nhờ một ông lão tốt bụng mở cho một lớp để hai người dạy đàn ca vọng cổ. Một hôm, cô Năm Cần Thơ tìm tới, mời 2 người lên đài phát thanh Pháp Á để thu bài “Trọng Thủy – Mỵ Châu” rồi được ký luôn hợp đồng làm việc cho đài. Từ đó bà chính thức bước vào nghề hát, vào những của thập niên 50, cặp diễn viên Út Bạch Lan – Thành Được đã làm rạng rỡ sân khấu Kim Chưởng. Bà và Thành Được đã làm nên thương hiệu của đoàn Thanh Minh – Thanh Nga, sau đó kết hôn với nghệ sĩ Thành Được. Một thời gian thì cuộc tình cũng chia tay, bà phải nuôi 4 đứa con của chồng. Là thế hệ kế tiếp của Phùng Há (má nuôi Kim Cương) bà vẫn đang tiếp tục sự nghiệp của mình. Những năm tháng còn lại của đời bà đã chọn vào cửa Phật, không phải xuống tóc quy y mà đêm gõ mõ tụng kinh, ngày chọn sân chùa làm sân khấu, hát trích đoạn những vở tuồng về Phật để lấy tiền trùng tu, sửa chữa chùa chiền.

                                              Bà từng được mệnh danh là “nữ hoàng vọng cổ”

Từ cô bé hát dạo

Cha mất sớm, hai mẹ con bé Út đi làm thuê làm mướn quanh khu vực Chợ Bình Tây sinh sống qua ngày. Đồng cảnh ngộ với mẹ của Văn Vĩ (khi đó tên là Đinh Văn Dậm) nên 2 bà kết nghĩa chị em, sống chung và cùng đi làm mướn. Cứ thế, năm này qua tháng nọ, những phận nghèo nương tựa cùng nhau. Bị mù từ nhỏ, nhưng Văn Vĩ học đàn guitar cổ nhạc và đàn rất giỏi nên đã dạy cho bé Út ca. Nghe máy hát đĩa của hàng xóm, bé Út ca theo và học thuộc nhiều bản vọng cổ khác. Thấy có người mù đi hát dạo trong chợ, được người ta cho tiền, trong khi đó bé Út và Văn Vĩ làm mướn người ta chỉ cho mớ rau, hay đồ ăn, thức uống… bé Út đã rủ Văn Vĩ lén mẹ đi hát dạo, hy vọng có tiền đỡ đần cho 2 bà mẹ đỡ cực. Vậy là Văn Vĩ (15 tuổi) và bé Út (11 tuổi) cùng cây đàn cũ đi hát dạo từ Chợ Lớn ra tới Chợ Bến Thành (Sài Gòn – Gia Định).

Đến sầu nữ giọng vàng

Tiếng đồn giọng hát làm mê lòng người của cô bé hát dạo đã khiến cô Năm Cần Thơ tò mò tới nghe bé Út ca, và cũng từ đây, cuộc đời bé Út đã có một bước ngoặt mới. Từ cô bé hát rong năm nào nơi vỉa hè góc chợ, bé Út được đứng trên sân khấu lung linh ánh đèn màu và nghệ danh Út Bạch Lan cũng có từ đây. Giữa thập niên 50, Út Bạch Lan bắt đầu được báo chí và khán giả chú ý qua vở dã sử “Đồ Bàn di hận” trên sân khấu Thanh Minh. Không ngừng khổ luyện diễn xuất, trau chuốt kỹ thuật ca ngâm, sáng tạo nét mới, NS Út Bạch Lan đã để lại nhiều dấu ấn trong lòng khán giả qua các vở diễn: Dưới hàng phượng vĩ, Nước mắt kẻ sang Tần, Tình cô gái Huế, Thuyền ra cửa biển, Thần nữ dâng Ngũ Linh Kỳ, Nước chảy qua cầu, Biên Thùy nổi sóng, Tình tráng sĩ, Nhớ rừng, Cung đàn trên sông lạnh, Thiên Thần trên thiết mã, Hoa Mộc Lan, Chén cơm đô thành, Đất Việt của người Việt… Năm 1958, Út Bạch Lan ký hợp đồng về hát cho đoàn Kim Chưởng với nghệ sĩ Thành Được.

                                         Cuộc sống chay tịnh hướng Phật lúc về già của Út Bạch Lan

Thành công nối tiếp thành công, NS Út Bạch Lan được các hãng đĩa tranh nhau mời thu thanh đĩa đơn, đĩa tuồng đa dạng từ xã hội, cổ tích, sử Việt Nam đến Trung Hoa, Tây, Nhật… với số lượng nhiều nhất so với những danh ca khác. Vai chị Hằng (Vở “Con gái chị Hằng” – Hà Triều – Hoa Phượng) là vai vàng giúp NS Út Bạch Lan đạt tới đỉnh vinh quang khi hóa thân trong bi kịch người mẹ hết dạ thương con, do những bước đi sai lầm đã dẫn đến cái chết thảm, bỏ lại đứa con dại khờ. Tiếp đó, trên SK Kim Chưởng, NS Út Bạch Lan có những vai xuất sắc qua các vở như Kiều Phi Yến (Nửa bản tình ca), Chiêu Trúc Lệ (Thuyền ra cửa biển)… Đặc biệt, với bài ca cổ “Hoa lan trắng” về cuộc đời của chính NS Út Bạch Lan do soạn giả Viễn Châu viết riêng cho giọng ca bi ai, não nuột của bà đã được nhiều khán giả đặc biệt yêu thích, xúc động trước nỗi niềm “Bao nhiêu mưa gió ngập trời/Hỏi ai còn nhớ một người tên Lan?”.

Gần 80 tuổi đời và hơn 60 năm gắn bó cùng sân khấu, giọng ca vàng và những vai diễn để đời đã đưa NS Út Bạch Lan lên đỉnh vinh quang của nghệ thuật Cải lương với nhiều giải thưởng, danh hiệu cao quý cùng những biệt danh khán giả và báo giới đã ưu ái dành tặng: Đệ nhất đào thương, Nữ hoàng vọng cổ, Vương nữ Sương chiều, Sầu nữ Út Bạch Lan..

Niềm vui tuổi về già

Niềm vui lớn nhất ở cái tuổi về chiều của Út Bạch Lan là thường cùng các anh chị em nghệ sĩ trong nhóm từ thiện của mình: Diệu Hiền, Tô Châu, Bảo Trân, Thanh Sử… biểu diễn văn nghệ để gây quỹ từ thiện cho chùa, hoặc giúp đỡ những gia đình có hoàn cảnh khó khăn.

Sau những nỗi buồn của cuộc đời, bà rất tin vào đạo Phật. Không xuống tóc xuất gia, đêm bà đọc kinh, ngày chọn sân chùa làm sân khấu, hát những bài ca, những vở tuồng về Phật để lấy tiền trùng tu, sửa chữa chùa chiền. Bà thọ Tam Quy Ngũ Giới với thầy bổn sư là cố TT Thích Minh Phát.

Bây giờ, NSƯT Út Bạch Lan ít đứng trên sân khấu, bà vui với cuộc sống chay tịnh giản đơn và vẫn miệt mài đem lời ca tiếng hát đi làm việc phước đức cho đời và xem đó là lẽ sống của mình. Bà tâm sự: “Có đi tận nơi, thấy được nỗi khổ của mọi người. Mới giật mình nhận ra mình có phước vô cùng. Ấy vậy mà đôi khi còn không biết hưởng, còn sinh ra lắm chuyện. Út đi nhiều, thấy nhiều nên bây giờ ai nói Út hà tiện Út chịu vì thấy xung quanh người ta còn cơ khổ quá mà mình ăn xài phung phí thì tội lắm. Hồi trẻ không biết, đua đòi nhiều, ai có gì mình phải có nấy. Bây giờ cơm ăn mỗi bữa, áo mặc mỗi ngày… Út đều thầm tạ ơn trời đất đã cho mình có may mắn hơn người.

         Bà qua đời vào ngày 4 tháng 11 năm 2016 tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 81 tuổi.

Các vở diễn

Được khẳng định tên tuổi của mình trên sân khấu vào những năm 60 bằng vai cô lái đò trong vở Tình tráng sĩ.
Nửa đời hương phấn (Tác giả: Hà Triều – Hoa Phượng).
Tuyệt tình ca (cải lương trước 1975)
Chưa tắt lửa lòng
Bến đồi trăng cũ
Thuyền ra cửa biển
Áo trắng nàng Mộng Trinh
Nửa bản tình ca
Người đẹp thành Baghdad

Tiểu sử nghệ sĩ ưu tú cải lươngThoại Mỹ

Thoại Mỹ, tên thật Nguyễn Thị Ngọc Mỹ (sinh ngày 28 tháng 4, năm 1969 tại Sài Gòn). Cô bắt đầu đi hát cải lương vào năm 11 tuổi với sự dìu dắt của chị Thoại Miêu và Út Trọng là người đã dạy Thoại Mỹ hát cải lương

Khoảng thập niên 50, cha mẹ Thoại Mỹ rời quê hương Quảng Nam – Đà Nẵng vào Sài Gòn lập nghiệp. Cũng chính nơi đây, họ đã sinh cô con gái Thoại Mỹ. Nhìn gương mặt xinh xắn như thiên thần của con, cha mẹ cô cẩn thận chọn cái tên Nguyễn Thị Ngọc Mỹ để hy vọng tương lai của con sẽ được tốt lành, hạnh phúc. Nhà có tới 12 anh, chị em nên cuộc sống gia đình Ngọc Mỹ trở nên chật vật hơn bao giờ hết, cô bé Ngọc Mỹ sớm phải bươn chải với cuộc sống.

Ngày còn nhỏ, Thoại Mỹ đã lon ton đi bán khoai, bán bắp, bưng hủ tiếu thuê để có tiền phụ cha mẹ. Thậm chí, có những lúc rảnh rỗi, Thoại Mỹ còn đi ở đợ. Vất vả, cơ cực đến ngạt thở nên niềm vui của Thoại Mỹ là những giây phút hiếm hoi được theo chị năm Thoại Miêu đến rạp xem cải lương. Có chị là nghệ sĩ nên tuổi thơ cô bé Thoại Mỹ được lời ca tiếng hát vỗ về, nuôi lớn từng ngày. Từ đó, dòng máu nghệ thuật thấm vào người Thoại Mỹ từ lúc nào không hay.

  NSƯT Thoại Mỹ, Thoại Miêu trong vở “Kim Vân Kiều”

Một hôm, như thường lệ khi đi xem chị Thoại Miêu diễn, thì không may có một sự cố trong đoàn, người diễn vai cô bé Sầu Riêng không đến. Vậy là mọi người cuống cuồng đi tìm người hát thế vì cũng đã sắp tới giờ diễn. Bỗng nhiên, họ thấy cô bé Thoại Mỹ đen nhẻm, gầy gò đang đứng chơi ở gần đó. Biết cô là em của Thoại Miêu, họ lên tiếng: “Đâu, nhỏ hát thử nghe coi được không?”. Mấy lần đến rạp nghe hát, Thoại Mỹ đã làm quen với cách bỏ giọng lên xuống, luyến láy của các nghệ sĩ trong đoàn. Thấy vậy cô bé cất giọng hát thử một đoạn ngắn bằng một phong thái rất nhẹ nhàng kèm theo một chất giọng vô cùng trong trẻo. Nghe hát xong mọi người trong đoàn ai nấy đều mừng rỡ. Họ nói với nhau không cần tìm bé Sầu Riêng ở đâu xa vì đã có bé Thoại Mỹ ngay trước mặt rồi. Trong vòng buổi sáng đó, mọi người gấp rút tập tuồng cho bé Thoại Mỹ. Kỳ lạ thay, chỉ cần hát qua một lượt, chỉ dẫn các động tác tay chân và các nét mặt khi lên sân khấu phải làm như thế nào là bé Thoại Mỹ thuộc bài ngay trong tức khắc. Hôm đó, Thoại Mỹ lên sân khấu hát một cách ngon ơ. Lối diễn xuất mộc mạc của cô bé đã khiến biết bao khán giả không cầm được nước mắt. Khi ấy Thoại Mỹ chỉ mới 11 tuổi.

Thấy cô bé Thoại Mỹ sớm bộc lộ năng khiếu, Lệ Thủy liền nói ngay với chị 5 Thoại Miêu: “Cho Mỹ đi học nghề đi, con nhỏ hát được lắm”. Như lời động viên kịp thời, cô bé Thoại Mỹ liền được gia đình gửi đi học hát ở nhà thầy Út Trong. Thoại Mỹ học với thầy suốt 2 năm. Được thầy tận tình hướng dẫn bài bản, cộng với năng khiếu sẵn có, cô bé Sầu Riêng như mảnh đất được bồi đắp phù sa càng thêm mỡ màng. Năm 13 tuổi, Thoại Mỹ thi đỗ vào khoa đào tạo diễn viên của nhà hát Trần Hữu Trang với tỉ lệ chọn 40/5000 học viên chính thức. Cùng khóa với các nghệ sĩ, ca sĩ nổi tiếng như: Vũ Linh, Kim Tử Long, Ngọc Huyền, Tô Châu, Thùy Trang,…

                                                                                NSUT Thoại Mỹ

Những tưởng khi thi đậu vào trường Trần Hữu Trang cuộc đời Thoại Mỹ sẽ bớt khổ cực hơn, vì được có lương. Nhưng khi cái nghèo vẫn đeo dai dẳng thì cuộc đời Thoại Mỹ vẫn còn đong đầy nước mắt. Thuở ấy, để được đi học, Thoại Mỹ phải quen dần với việc thường xuyên đi bộ. Buổi trưa là lúc cực nhất vì cô phải đội nắng chang chang hàng chục cây số về nhà ăn vội bữa cơm trưa, rồi lại tất tả trở về trường học cho kịp giờ học. Tuy mệt mỏi nhưng đôi bàn chân nhỏ bé của cô gái nghèo vẫn kiên trì vượt đường xa. Không chỉ chăm lo cho việc học diễn xuất, chiều tối, Thoại Mỹ lại tiếp tục đi học văn hóa để nâng cao kiến thức. Như một con ong chăm chỉ cô gái nhỏ đều đặn đi học và không bỏ sót bất kỳ một buổi học nào. Thấy con siêng năng học hành, người mẹ mừng thầm trong bụng. Bà mong cho con gái sớm được đi hát và sẵn sàng xách giỏ trầu đi theo lo cho con. Tuy nhiên, ước mơ ấy đã sớm vụt tắt. Sau một năm Thoại Mỹ đi học ở trường Trần Hữu Trang thì người mẹ qua đời. Ngày mẹ mất, Thoại Mỹ cứ nghĩ mẹ đi đâu mấy ngày rồi sẽ về với mình nhưng niềm mong chờ ấy mãi mãi chỉ là một giấc mơ, mẹ không bao giờ quay về được nữa. Cô gái nhỏ sớm phải chịu cuộc đời mồ côi buộc mình phải tự lập hơn trong cuộc sống. Những lúc không học bài cô bé Thoại Mỹ chọn việc đi làm bảo mẫu giữ con cho gia đình người ta để kiếm thêm thu nhập trang trải trong gia đình. Khi bắt đầu có show hát, khoảng 15h, Thoại Mỹ tiếp tục đi bộ từ nhà đến rạp hát. Suốt tuổi trẻ của mình, Thoại Mỹ chưa từng biết đến cảm giác được đi xe đạp là như thế nào, bởi gia đình còn nghèo thì chiếc xe đạp vẫn còn là một vật xa tầm với.

Năm 16 tuổi, sau khi ra trường, Thoại Mỹ bắt đầu đi hát ở nhiều nơi như Đoàn 3, Đoàn Huỳnh Long, đoàn Sông Bé, Nhà hát Trần Hữu Trang. Đi đến đâu chị cũng được tiếng không bao giờ kén chọn vai diễn. Vai nào vào tay Thoại Mỹ đều được chị hoàn thành xuất sắc. Khán giả thì hồi hộp nhìn Thoại Mỹ lột xác từ vai ác, vai mùi, vai độc, vai lẳng, sang con nít, bà già… ngọt xớt mà lòng tràn đầy cảm xúc. Khán giả khi thì giận bầm gan tím ruột, lúc lại thương đứt ruột đứt gan cô đào mang dáng người nhỏ nhắn nhưng có giọng ca thật truyền cảm. Đến khi vào vai Phi Loan trong Sở Vân cưới vợ, Thoại Mỹ như đánh được một tiếng vang lớn, nhiều khán giả biết đến tên chị hơn. Họ yêu mến và say sưa xem chị diễn hết vai này đến vai khác một cách nồng nhiệt.

Làm nghệ thuật bằng sự say mê nên mỗi lần ra sân khấu là chị rút hết nội lực để hóa thân vào các nhân vật. Vì vậy, trong những ngày đầu quân cho đoàn Huỳnh Long (một đoàn tuồng cổ rặt ở Sài Gòn những năm trước -PV), Thoại Mỹ cũng không nhớ mình đã xỉu biết bao nhiêu lần trên sân khấu. Chị chỉ nhớ bao nhiêu lần khép màn là bấy nhiêu lần chị bất tỉnh nhân sự trên vòng tay của bạn bè, đồng nghiệp. Nhưng đã trót mang lấy nghiệp vào thân thì như phận tằm phải nhả tơ. Hằng đêm, Thoại Mỹ lại buông lời ca tiếng hát dưới ánh đèn huyền hoặc của sân khấu để cống hiến những vai diễn đầy cảm xúc đến khán giả. Dù có đôi khi sân khấu đã đem lại cho chị những nỗi đau, những vết thương mang di chứng suốt đời.

Cuối năm 2003, khi tập tuồng Xử án Bàng Quý Phi, trong lúc mải mê tập đến đoạn nhảy từ trên cao xuống, chị đã bị té đau điếng. Ban đầu, Thoại Mỹ cứ nghĩ mình bị bong gân nên chị cố gắng kìm nén cơn đau lại để tiếp tục tập với đồng nghiệp. Những đợt diễn liên tiếp đến khiến chị quên cả việc phải điều trị đôi chân. Cho đến một ngày, khi cơn đau dồn dập đến khiến cho cơ thể bé nhỏ đã không còn sức chịu đựng được nữa, Thoại Mỹ đành đến bác sĩ để khám, thì chị hay tin: Khớp gối của mình bị bể, kèm theo đó là chứng bệnh teo cơ. Suốt thời gian đó Thoại Mỹ phải đi nạng để bảo vệ vết thương. Nằm ở nhà nghe tiếng đờn réo rắt bên tai khiến lòng chị lại nhớ nghề quay quắt. Đến khi vừa bỏ được cặp nạng chị chạy ùa về ngay với sân khấu như đứa con được ùa vào lòng mẹ ấm áp. Rồi chị tiếp tục tập vai công chúa Ngọc Hân trong vở Hồn Thơ Ngọc để tham gia và giành giải nhất trong cuộc thi Diễn viên tài sắc năm 2003 – 2004.

Trong vở diễn này Thoại Mỹ đã khắc họa đậm nét hình tượng của người đàn bà có khát vọng khắc khoải muốn được sống xứng đáng với tình yêu của chồng và chống lại định kiến bất công của xã hội. Giữa chập chùng lửa cháy trước sự bao vây của kẻ thù, Thoại Mỹ đã diễn được sự quyết tâm. Ánh mắt chị bừng cháy lên ngọn lửa quyết bảo vệ đến cùng giọt máu của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Tiểu phẩm đem đến một hình thức biểu tượng hóa trong ngôn ngữ dàn cảnh đầy màu sắc phối hợp với vũ đạo tưng bừng và diễn xuất nội tâm xuất sắc của NSƯT Thoại Mỹ đã cho mang lại cho khán giả một tiết mục vô cùng mãn nhãn.

Liveshow

Năm 2005, liveshow Sáng mãi niềm tin tại sân 4A Nhà Văn hóa Thanh Niên.
Năm 2007, liveshow để đời Thoại Mỹ – Tung cánh phượng hồng với chi phí đầu tư 600 triệu đồng tại sân khấu Lan Anh.
Nhắc đến cái tên Thoại Mỹ nhiều khán giả mộ điệu cải lương thể hiện tình cảm ra mặt, thương thì thương rất nhiều, mà đã ghét là ghét cay ghét đắng. Họ ghét bởi một lý do rất dễ thương coi tivi thấy đóng mấy vai ác quá, nhìn mặt là thấy ghét. Đối với nhiều người, cái sự ghét này khiến họ buồn, nhưng với người nghệ sĩ đó là một thành công lớn vì đã rất xuất sắc trong việc thổi hồn cho nhân vật, khiến nhân vật hiện lên một cách sống động nhất. Trong nghệ thuật, sau khi tấm màn nhung khép lại, người nghệ sĩ làm cho khán giả nhớ đến mình thì dù là thương, ghét, hay chửi thậm tệ, cũng có nghĩa là họ đã thành công.

Thưa quý khán giả mộ điệu, về gia đình thì mối tình đầu Thoại Mỹ – Kim Tử Long không đưa đến hôn nhân. Hiện nay, 2 người vẫn là đôi bạn tốt, giúp nhau trên sàn diễn và là đôi diễn viên diễn cặp ăn ý nhất, sinh động nhất, được khán giả ưa thích nhất. Nữ nghệ sĩ Thoại Mỹ có 1 lần lập gia đình, hôn lễ của cô và chồng cô được đánh giá là trọng thể nhất, sau hôn lễ của minh tinh Thẩm Thúy Hằng, vì có đến 1000 quan khách đến dự tiệc cưới đó. Rất tiếc cuộc hôn nhân này sau đó bị gãy đổ. Thoại Mỹ tưởng hụt hẫng đến xa rời sân khấu nhưng cô lần hồi tìm lại được sự quyết tâm và can đảm để tiếp nối con đường nghệ thuật sân khấu. Khi nhắc lại cuộc hôn nhân tan vỡ đầu tiên, Thoại Mỹ cho là lúc đó cô còn quá trẻ, chưa suy nghĩ thấu đáo trước khi quyết định về cuộc đời mình. Bây giờ cô có đủ kinh nghiệm trong cuộc sống, đạt được nhiều vinh quang trong nghề nghiệp, đã can đảm khắc phục những khó khăn khi đau bệnh và đổ vỡ cuộc đời riêng, cô nói hạnh phúc lớn nhất của cô hiện nay là được đem lời ca tiếng hát mà đáp lại tấm thạnh tình của khán giả ái mộ Thoại Mỹ. Được hát trên sân khấu, được phục vụ khán giả khắp bốn phương, đó là hạnh phúc lớn nhất của Thoại Mỹ.

Giải thưởng

  • Năm 1990 Thoại Mỹ đoạt huy chương Bạc tại Liên hoan sân khấu toàn quốc, vai Lan trong vở Giũ áo Bụi Đời.
  • Năm 1992 Thoại Mỹ đạt huy chương Vàng Giải Trần Hữu Trang trong vai Hồng Phụng, tuồng Ngọc Kỳ Lân.
  • Ðạt huy chương vàng, huy chương bạc giải mai vàng do bạn đọc báo người lao động bình chọn là diễn viên xuất sắc. Diễn thành công nhất là tướng Ngọc Kỳ Lân trong vai nữ soái Hồng Phụng[1].
  • Năm 1992, là diễn viên được yêu thích nhất do báo Sân khấu và Hội Sân khấu tổ chức trưng cầu ý kiến đọc giả và khán giá.
  • Năm 1995: Là diễn viên xuất sắc giải Trần Hữu Trang được yêu thích nhất do Báo Sân khấu và Hội Sân khấu tổ chức trưng cầu ý kiến.
  • Năm 1995: đoạt giải Mai Vàng, vai Võ Tắc Thiên trong vở Thái Bình Công chúa.
  • Ngày 12 tháng 09 năm 2003, Huy chương vì sự nghiệp sân khấu.
  • Năm 2003 Giải mai vàng do báo người lao động bình chọn (vai Lan – Lời thú tội muộn màng).
  • Năm 2003 Huy Chương Văn Hóa.
  • Ngày 14 tháng 01 năm 2004, đạt giải mai vàng do báo người lao động bình chọn.
  • Năm 2004 Là gương mặt nghệ sĩ sân khấu ấn tượng do bạn đọc báo Tuổi Trẻ bình chọn.
  • Ngày 21 tháng 04 năm 2004 đạt huy chương vàng diễn viên tài sắc (vai Ngọc Hân – Hồn Thơ Ngọc)
  • Năm 2005, đạt huy chương Vàng tại Hội diễn cải lương chuyên nghiệp toàn quốc vai Phượng trong vở Rồng Phượng.
  • Năm 2005: Giải Mai vàng do báo người lao động bình chọn (vai Phượng – Rồng Phượng).
  • Năm 2007: Giải Mai vàng do báo Người lao động bình chọn (vai Thúy Kiều – Kim Vân Kiều).
  • Năm 2007: Đạt danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú.

Tân cổ giao duyên

  • Câu chuyện đầu năm (Tân nhạc: Hoài An; cổ nhạc: Thạch Tuyền)
  • Lửa gần rơm (Tân nhạc: Trần Trịnh; lời vọng cổ: Hoàng Song Việt)
  • Yêu chị Hai lúa (Nhạc: Chế Thanh; lời vọng cổ: Hữu Châu)
  • Thiên duyên tiền định (Nhạc: Hoài Linh; lời vọng cổ: Tô Thiên Kiều)
  • Tình thắm duyên quê (Tác giả: Trúc Phương)
  • Đôi ngã chia ly
  • Trai tài gái sắc (Tân nhạc: Mã Thu Giang; cổ nhạc: Bạch Mai)
  • Diệu kỳ sức sống Cải lương (Tác giả: Lâm Hữu Tặng)
  • Nỗi buồn mẹ tôi (Nhạc: Minh Vy; lời vọng cổ: Viễn Châu)
  • Hành trình trên đất phù sa (Nhạc: Thanh Sơn; lời vọng cổ: Dương Đình Trí)
  • Ru lại câu hò (Nhạc: Vũ Quốc Việt; lời vọng cổ: Hoàng Song Việt)
  • Dạ cổ hoài lang (Nguyên tác: Cao Văn Lầu; vọng cổ: Tô Thiên Kiều)
  • Con gái của mẹ (Tân nhạc: Giao Tiên; cổ nhạc: Loan Thảo)

Tân nhạc

  • Mẹ từ bi
  • Xuân quê tôi
  • Tằm vương tơ
  • Miền Tây quê tôi (Tác giả: Cao Minh Thu)

Tiểu sử nghệ sĩ ưu tú cải lương Ngọc Huyền

Ngọc Huyền được đánh giá là người đã “đưa cải lương bứt phá khỏi các khuôn mẫu cũ để tiếp cận nhịp sống của thời đại.

Tiểu sử và quá trình hoạt động

Cô tên thật là Vũ Hà Ngọc Huyền sinh năm 1970 tại Sài Gòn. Gia đình cô di cư vào Nam năm 1954. Cha cô là kiến trúc sư gốc Hà Nội, mẹ nguyên quán ở Hà Tây. Ngọc Huyền sinh ra tại Sài Gòn. Gia đình không ai theo nghề nghệ thuật nhưng Ngọc Huyền lại đam mê với nghề này. Được sự ủng hộ và truyền cảm hứng từ mẹ, cô bước vào sân khấu từ năm 14 tuổi bằng sự nghiệp ca hát cải lương.

                                                                           Nghệ sĩ Ngọc Huyền

Năm 1985, Ngọc Huyền hát trên sân khấu Thanh Nga vở tuồng đầu tiên là Những đêm trăn trở.
Từ 1985 đến năm 1989, Ngọc Huyền được học cách hát tuồng Tàu qua các vở tuồng kinh điển. Sau khi gia nhập đoàn cải lương tuồng cổ Huỳnh Long, cô được các nghệ sĩ đào tạo hát Hồ Quảng, rồi tiếp tục được các nghệ sĩ có tiếng khác trong lĩnh vực đào tạo. Cô diễn thành công nhiều loại tuồng, từ tuồng cổ, Hồ Quảng đến các vở ca kịch xã hội hiện đại.
Năm 1992, từ lĩnh vực cải lương, cô tham gia sang lĩnh vực ca nhạc, điện ảnh.
Ngọc Huyền từng là diễn viên xuất hiện nhiều nhất trong các chương trình băng đĩa trong nước và được khán giả ái mộ gọi cô là “Nữ hoàng chi bảo video“, là nghệ sĩ trẻ nhất miền Nam trong lĩnh vực cải lương được Nhà nước trao tặng danh hiệu nghệ sĩ ưu tú vào năm 2001.
Tháng 12 năm 2002, cô còn tổ chức liveshow “Mãi mãi ước mơ” tại Nhà hát Hoà Bình ở Thành phố Hồ Chí Minh trong 3 đêm liền, thu hút hơn 5.000 khán giả tham dự. Giáo sư Trần Văn Khê nhận xét:

“  Qua chương trình này, cải lương đã bứt phá ra ngoài những khuôn mẫu cũ để tiếp cận với giới trẻ bằng hơi thở, nhịp sống của thời đại nhưng vẫn giữ được chất mộc mạc, truyền cảm, trữ tình của sân khấu truyền thống. ”

                                           Ngọc Huyền được mệnh danh là “Nữ hoàng chi bảo video”

Sau một thời gian bay show qua Mỹ bằng con đường du lịch và ngụ tại nhà ca sĩ Thanh Tuyền, năm 2002, Ngọc Huyền quyết định tiến tới hôn nhân với Đông Nguyễn – con trai Thanh Tuyền, một sĩ quan trong Không quân Hoa Kỳ. Cô kết hôn và sang Mỹ định cư. Sau đó cô chuyển sang lĩnh vực ca tân nhạc, tân cổ giao duyên và phát hành DVD những trích đoạn Hồ Quảng Tứ đại Mỹ Nhân, giành được sự yêu mến của khán thính giả hải ngoại. Tháng 8 năm 2010, cô tổ chức liveshow mang tên “Giữ Mãi Tình Yêu” kỉ niệm 25 năm ca hát tại Dallas  với hai suất diễn trong cùng một ngày, do Trung tâm Asia thu hình và phát hành thành DVD.

Sau 14 năm xa quê hương, cuối năm 2016, Ngọc Huyền được Cục Nghệ thuật Biểu diễn cấp giấy phép làm giám khảo cuộc thi Đường đến danh ca vọng cổ, do công ty TNHH Truyền thông và Giải trí Điền Quân sản xuất và được phát sóng trên kênh HTVC Thuần Việt từ ngày 19 tháng 11 năm 2016.

Tranh cãi

Ngọc Huyền.jpg

                                                  Ngọc Huyền được phong tặng NSUT

Từ 2003, Ngọc Huyền trở thành ca sĩ độc quyền cho Trung tâm Asia. Cùng thời gian này, cô vẫn tiếp tục tham gia các chương trình văn nghệ tại Việt Nam.
Tháng 7 năm 2005, trong chương trình Asia 46 – Hành trình 30 năm (bị chính quyền Việt Nam xem là “một chương trình phản động được dàn dựng quy mô và hoành tráng”), Ngọc Huyền đã trình bày ca khúc “Quê hương bỏ lại” với biểu hiện bị báo Việt Nam miêu tả là “khóc bi ai”, trong bộ áo dài họa hình chữ S trước những mô hình trại tạm cư. Một số bài báo của Việt Nam lên tiếng chỉ trích sự xuất hiện của cô trong chương trình này. Phó Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh còn cho rằng “Chỉ cần một chương trình này thôi, Ngọc Huyền không còn xứng đáng với danh hiệu NSƯT” và còn tuyên bố “ủng hộ ý kiến không cho Ngọc Huyền về nước nữa”.

Tháng 4 năm 2007, Trung tâm Asia phát hành bộ đĩa DVD thứ 54 mang tên Bước chân Việt Nam, với mở đầu bằng màn quảng cáo phim Vượt sóng sản xuất ở hải ngoại, được giới thiệu là “bộ phim đầu tiên về tù cải tạo và thuyền nhân”. Chương trình có sự tham gia của Ngọc Huyền cùng một vài nghệ sĩ trong nước có tên tuổi như Bảo Yến và Kim Tiểu Long. Bộ Văn hóa – Thông tin Việt Nam đã ban hành chỉ đạo thu hồi bộ đĩa này (vốn chỉ lưu hành lậu dưới dạng đĩa giả tại Việt Nam) vì cho rằng nội dung mang tính chất “phản động” và “có nhiều bài hát có minh họa hình ảnh và lời bình đả kích chế độ”. Tuy nhiên, sau lệnh cấm, có đánh giá rằng việc báo chí lên tiếng hay việc chỉ đạo thu hồi bộ đĩa từ phía nhà cầm quyền chỉ có tác dụng làm tăng gấp đôi giá đĩa lậu và đĩa vẫn tiếp tục được bán rộng rãi trên thị trường chợ đen; các cơ quan chức năng không thể kiểm soát hết được.

Năm 2008, trong chương trình Asia 58 – Lá thư từ chiến trường, trước phông màn lửa cháy và pháo nổ, Ngọc Huyền xuất hiện trên chiếc xe jeep trong trang phục áo dài cách điệu, trình bày ca khúc “Thương về vùng hỏa tuyến” với phần ca từ mà báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh diễn đạt là kể về “vùng hỏa tuyến lửa máu, xóm thôn hoang tàn đổ nát”. Việc xuất hiện trên video này khiến cho Ngọc Huyền lại bị nhiều báo tại Việt Nam chỉ trích, trong đó tờ báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng cô đã “rên rỉ nức nở các bài hát xuyên tạc đất nước…”, “không đúng sự thực về quê nhà”. Về việc này, Ngọc Huyền nói:

“ … em cảm giác rất buồn. Khi người nghệ sĩ hay ca sĩ cầm một ca khúc để hát hoặc nhận một vai để diễn, họ chỉ biết đặt mình vào nhân vật đó chứ họ không nghĩ mình đứng bên lề chính trị này hay lề chính trị kia. Những người viết báo đó đã không thương cho những người làm nghệ thuật. ”

Sau sự kiện này, việc tước bỏ danh hiệu và việc cấm biểu diễn của cô cũng được chính quyền xét lại nhưng chưa được chính thức xử lý vì cô đã định cư ở nước ngoài.

Tháng 1 năm 2010, phần về Ngọc Huyền cũng không được phía Việt Nam đưa vào cuộc triển lãm chuyên đề “Nữ nghệ sĩ cải lương miền Nam” tổ chức tại nước này.

                     Ngày 11/10/2017 Ngọc Huyền chính thức được cấp phép hoạt động sau 15 năm

Quan điểm

Về việc định cư ở nước ngoài, Ngọc Huyền cho biết cô “không hối hận khi quyết định ra đi” và “nếu thật sự mình yêu nghề, yêu sân khấu thì nơi đâu mình cũng vẫn có thể bảo tồn và phát triển loại hình nghệ thuật mình yêu mến và đeo đuổi.”

Trong cuộc phỏng vấn vào đầu năm 2005, nhân nói về chuyện hôn nhân xa xứ của cô, cô bày tỏ:
“ Nhìn lại mọi chuyện, em thấy tất cả như Định Mệnh bày sẵn. Em không biện bạch cho mình mà đây chỉ là những bộc bạch…, nếu khán giả thương, hiểu cho Huyền thì đó là Hạnh Phúc lớn dành cho nghệ sĩ. Khi còn là một cô bé, em đã có nhiều suy nghĩ về thần tượng của mình – những nghệ sĩ tài danh. Họ luôn là người sống chân thật, vì thế, họ mới truyền tải tới khán giả những nhân vật trên sàn diễn, mà khán giả có thể khóc, cười với nhân vật đó. Cũng có người cho rằng diễn xuất là sân khấu… Nhưng cuộc đời là sân khấu, sân khấu chính là cuộc đời…”

Thành tích

  • Huy chương vàng hội diễn chuyên nghiệp toàn quốc 1990 và 2000.
  • Huy chương vàng giải Trần Hữu Trang năm 1991
  • Diễn viên được ưa thích nhất năm 1991, 1992 và 1993.
  • Giải Mai vàng (1995, 1996, 1997 và 2002)
  • Nghệ sĩ ưu tú (2001)

Một số sản phẩm văn nghệ

CD & DVD

  • CD Chuyện một người đi
  • CD Liên khúc Chuyện hoa sim (với Tuấn Vũ)
  • CD Nối Lại Tình Xưa (với Đặng Thế Luân)
  • CD Tâm Sự Đời Tôi
  • CD Chùa Tôi & Mẹ Tôi
  • CD Ơn Mẹ – Đẹp Tình Quê Hương
  • CD nhạc Trần Thiện Thanh – Chuyện Một Người Đi
  • DVD Về chốn bình yên (2015)
  • DVD Ngọc Huyền 25 Năm Ca Hát “Giữ mãi tình yêu”, Live show tại Dallas (2010)
  • CD Không Bao Giờ Quên Anh
  • CD Liên khúc 5 Mùa – [Asia CDCS34]
  • DVD 10 năm viễn xứ-Đẹp tình quê hương, Liveshow tại California (2013)
  • VCD Liveshow 15 năm ca hát “Mãi mãi ước mơ” (2002)
  • VCD Tứ Đại Mỹ Nhân (2008)
  • DVD Tân Bông Hồng Cài Áo
  • DVD Nước Mắt Người Viễn Xứ
  • DVD Trở Về Mái Nhà Xưa

Trình diễn trên sân khấu hải ngoại

1 Tân cổ: Mẹ chồng của tôi (Ngọc Huyền)
2 LK Giọt lệ đài trang (Châu Kỳ), Đôi ngã chia ly (Khánh Băng)
3 Phận gái thuyền quyên (Nguyên Thảo, Giao Tiên)
4 Quê hương bỏ lại (Tô Huyền Vân)
5 Gánh hát rong (Anh Bằng, Ngọc Huyền) solo ASIA 47 2005
6 LK Chiều mưa biên giới và Sắc hoa màu nhớ (Nguyễn Văn Đông)
7 Tân cổ: Lan và Điệp (Mạc Phong Linh, Mãi Thiết Lĩnh)
8 Chiếc áo bà ba (Trần Thiện Thanh)
9 LK Chuyện Hợp Tan, Chuyện Ba Người (Quốc Dũng)
10 LK Chuyện Tình Hoa Trắng (Anh Bằng, Kiên Giang), Chuyện Giàn Thiên Lý (Anh Bằng, Yên Thao),
huyện Hoa Sim (Anh Bằng, Hữu Loan).
11 Hà Tiên (Lê Dinh).
12 Câu Chuyện Đầu Năm (Hoài An)
13 Cải lương: Chung Vô Diệm Tuấn Hùng, Hương Huyền
14 7000 Đêm Góp Lại (Trầm Tử Thiêng)
15 Tình Đầu Một Thời Áo Trắng (Trầm Tử Thiêng).
16 Cải lương: Tiếng Trống Mê Linh (Trưng Vương, Việt Dung)
17 Tiếng Hát Mường Luông (Lê Dinh, Minh Kỳ)
18 Tân cổ: Cánh Chim Bạt Gió (Nam Lộc, Ngọc Huyền, Bạch Mai)
19 Giờ Này Anh Ở Đâu (Khánh Băng)
20 Thương Về Vùng Hỏa Tuyến (Anh Bằng, Vũ Chương)
21 Hoa Nở Về Đêm (Mạnh Phát)
22 Cải lương: Mạnh Lệ Quân Kỳ Nữ Thiên Kim
23 Chuyện Buồn Ngày Xuân (Lam Phương)
24 Tân cổ: Tạ Từ Trong Đêm
25 Chuyện Tình Ngưu Lang Chức Nữ
26 Hai Mùa Noel (Nguyễn Vũ)
27 Bài Thánh Ca Buồn
28 Đón xuân này nhớ xuân xưa (Châu Kỳ)
29 Rước Tình Về Với Quê Hương
30 Tân cổ: Biết Đến Bao Giờ
31 Chuyện Tình Người Đan Áo (Trường Sa)
32 Tân cổ: Áo Đẹp Nàng Dâu (Lê Minh Bằng, Viễn Châu)
33 Đà Lạt Xa Nhau (Anh Bằng)
34 Tân cổ: Chiều Thương Đô thị
35 Cám Ơn Anh (Trúc Hồ, Trầm Tử Thiêng)
36 Cho Kỷ Niệm Mùa Đông (Anh Bằng)
37 Cánh Thiệp Đầu Xuân (Lê Dinh)
38 Tân cổ: Còn Thương Rau Đắng Mọc Sau Hè
39 Mùa Sao Sáng (Nguyễn Văn Đông)
40 Cõi Nhớ (Sông Trà)
41 Cải lương: Tấm Lòng Của Biển (Hà Triều, Hoa Phượng)
42 Duyên quê (Hoàng Thi Thơ)
43 Đêm Tâm Sự (Trúc Phương)
44 Cải lương: Tiếng Trống Mê Linh
45 LK Đồn Vắng Chiều Xuân, Khúc Giao Màu (Trần Thiện Thanh)
46 Tàu Về Quê Hương (Hồng Vân)
47 Lời ru Của Mẹ (Trầm Tử Thiêng, Tấn An)
48 Đường Về Quê Hương (Lam Phương)
49 Ai Lên Xứ Hoa Đào (Hoàng Nguyên)
50  Nhớ Chi Lạ Huế Ơi

Tiểu sử về cố nghệ sĩ nhân dân Thanh Tòng

Đôi nét về nghệ sĩ Thanh Tòng- nghệ sĩ được báo chí mệnh danh là ‘Vua cải lương Hồ quảng“.

Cuộc đời và sự nghiệp

Thanh Tòng (1948 -2016) là nghệ sĩ cải lương nổi tiếng Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Thanh Tòng, quê ở Sài Gòn. Ông xuất thân từ gia tộc Vĩnh Xuân ban, bắt nguồn từ đoàn hát lấy theo tên tổ phụ và tổ mẫu là kép Vĩnh và đào Xuân. Ông nội ông là Nguyễn Văn Thắng, con của kép Vĩnh và đào Xuân, còn được biết với biệt danh bầu Thắng hay kép Hai Thắng, một nghệ sĩ hát bội lừng danh đầu thế kỷ 20. Thân sinh ông là nghệ sĩ Minh Tơ, tên thật là Nguyễn Văn Tơ. Tính từ bầu Thắng thì Thanh Tòng được tính là thế hệ thứ 3. Gia tộc Vĩnh Xuân ban được xem là một trong Ngũ đại gia tộc của sân khấu cải lương Việt Nam.

                                         Thanh Tòng được mệnh danh là  vua cải lương Hồ Quảng 

Thanh Tòng là người con thứ 4 trong gia đình nghệ sĩ Minh Tơ. Do ảnh hưởng gia đình, từ nhỏ ông đã sớm tiếp cận môi trường nghệ thuật. Năm lên 3 tuổi, ông lần đầu tiên trình diễn trên sân khấu cùng ông nội trong vở “Hoàng Phi Hổ quy Châu và San Hậu”. Năm lên 6, ông được cha cho đi học cải lương, tân nhạc, nhảy thiết hài. Năm lên 10, ông được giao hát vai Lữ Bố trong đoàn Đồng ấu Minh Tơ. Lên 11, ông được các ký giả Sài Gòn thời đó phong cho danh hiệu “thần đồng sân khấu” và diễn được đủ vai, từ văn tới võ, hát bội cũng hay mà ca cải lương cũng ngọt. Bất cứ nghề nào có liên quan đến sân khấu là ông điều học hỏi am tường.

Năm 14 tuổi, Thanh Tòng học đàn cổ và những trích đoạn kinh điển. Năm 20 tuổi, ông gia nhập đoàn Minh Tơ và trở thành tác giả kịch bản của nhiều vở tuồng như: Dưới cờ Tây Sơn, Thanh gươm và nữ tướng, Gió lộng bến Bình Than và con đường nghệ thuật của ông bắt đầu từ đây. Ông đã dàn dựng vở Bao Công vô lò gạch tra án Quách Hòe trên sân khấu Khánh Hồng – Minh Tơ như khởi nghiệp cho nghề đạo diễn về sau.

Ông để lại ấn tượng sâu sắc trong khán giả với nhiều vai diễn đa tính cách. Năm 1968, báo chí thời đó phong ông là ‘Vua cải lương Hồ quảng”. Những vở Phạm Lãi – Tây Thi, Võ Tòng sát tẩu của ông được khán giả yêu thích…

                                                      NSND Thanh Tòng trong một vai diễn

Năm 2007, Thanh Tòng được trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân.
Ông qua đời sáng 22 tháng 9 năm 2016 tại TP HCM, hưởng thọ 68 tuổi.

Gia đình

                                                    NSND Thanh Tòng và con gái NSUT Quế Trân

Thanh Tòng thuộc thế hệ thứ ba của đại gia đình cải lương tuồng cổ nổi tiếng ở miền Nam. Ông nội của Thanh Tòng là bầu Thắng, còn cha là nghệ sĩ Minh Tơ. Các tên tuổi như: Bạch Lê, Bạch Lựu, Bạch Lý, Bạch Long, Thành Lộc, đạo diễn Phượng Hoàng… là em cô cậu ruột của ông. Tú Sương, Trinh Trinh, Thanh Thảo… là các cháu của ông. Nghệ sĩ Ưu tú Quế Trân là con gái ruột của nghệ sĩ Thanh Tòng.

Tiểu sử Nghệ sĩ nhân dân cải lương Ngọc Giàu

Cuộc đời và sự nghiệp NSND Ngọc Giàu

Ngọc Giàu tên khai sinh là Phong Thị Ngọc Giàu (sinh ngày 13 tháng 7 năm 1945) là nghệ sĩ cải lương người Việt Nam. Bà hoạt động ở lĩnh vực cải lương, hài kịch và phim ảnh.

                                                                       NSND Ngọc Giàu hồi trẻ

Sự nghiệp

Bà lớn lên trong gia đình lao động nghèo ở Thủ Thiêm (nay là Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh). Ngọc Giàu lại rất mê ca hát. Lúc 12 tuổi, bà được nhận vào gánh hát Mai Lan Phương – Ngọc Chiểu và chỉ làm tỳ nữ, rồi ngâm thơ hậu trường. Đến khi về đoàn Ngọc Kiều của Hoàng Kinh – Ngọc Đáng (năm bà tròn 13 tuổi) thì được đóng những vai đào nhì, sau hai tháng được nâng lên đào chính. Một lần cùng đoàn đi diễn ở Quảng Ngãi, đoàn Ngọc Kiều diễn vở Đôi mắt giai nhân. Trong số khán giả đến xem đêm diễn ấy có bà bầu của đoàn Kim Chưởng nên bà đã được mời về làm diễn viên của đoàn Kim Chưởng.

Nghệ sĩ Ngọc giàu với nhiều vai diễn ở nhiều thể loại nghệ thuật

Sau hơn một năm cùng đoàn đi lưu diễn khắp các tỉnh từ miền Trung Việt Nam đến Đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1958, về đến Sài Gòn, Ngọc Giàu được chủ rạp hát Hưng Đạo mời dự lễ khai trương, đồng thời tham gia vai đào chính trong vở Hai cánh én đầu xuân, đóng cặp cùng nam diễn viên tài danh Minh Chí. Sau lần diễn đó, Nghệ sĩ Minh Chí đã đưa bà đi giới thiệu với các hãng băng đĩa ở Sài Gòn. Chủ hãng Châu Á, một hãng đĩa lớn ở Sài Gòn, sau khi nghe Ngọc Giàu ngâm thơ và hát thử đã ký hợp đồng dài hạn.2 năm sau, bà được soạn giả Hà Triều – Hoa Phượng ở đoàn hát Thanh Minh – Thanh Nga mời về đoàn. Bà được trao Giải Thanh Tâm vào đầu năm 1960 nhờ nhiều vai diễn, như vai đào chánh Điêu Thuyền. Năm 1967, bà đón nhận Giải Thanh Tâm.

Những bạn diễn của bà là: Lệ Thủy, Thanh Sang, Út Trà Ôn, Thanh Nam, Thanh Nga, Út Bạch Lan, Bạch Tuyết, Minh Vương, Minh Cảnh,…

Nghệ sĩ Ngọc Giàu còn rất  thành công trong lĩnh vực nghệ thuật hài

Giải thưởng

Năm 1960, bà nhận Giải Thanh Tâm (vai Điêu Thuyền).
Năm 1979, khi mới 34 tuổi, bà đã được trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú.
Năm 1995, bà được trao Giải Mai vàng lần thứ 1.
Năm 2003, bà đoạt giải thưởng Diễn viên được yêu thích nhất trong Gala cười 2003.
Năm 2012, bà được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân ở lần xét thứ 7 – năm 2011.
Cho tới nay, hơn 60 năm gắn bó với nghệ thuật, và là nghệ sĩ, người thầy mẫu mực của Nhà hát Trần Hữu Trang, Ngọc Giàu đã có hơn 100 vai diễn trên sân khấucải lương, khoảng 50 vở kịch, hàng chục phim truyện nhựa, video, tấu hài.

Các vai diễn

Cải lương

  • Đời cô Lựu (vai bà Hương)
  • Bông hồng cài áo (vai bà mẹ điên)
  • Đời cô Lựu (vai cô Bảy cán vá)
  • Cô gái Đồ Long (vai Triệu Minh) (với Tấn Tài)
  • Thái hậu Dương Vân Nga (vai Thái hậu Dương Vân Nga)
  • Con gái chị Hằng (vai chị Hằng)
  • Đôi mắt người xưa (vai Hiền) (với Hữu Phước)
  • Lá trầu xanh (vai bà Hội đồng)
  • Sân khấu về khuya (vai Mỹ Tiên) (với Thành Được, Thanh Nga)
  • Anh hùng xạ điêu (vai Mục Niệm Từ)
  • Tình yêu và lời đáp (vai Năm)
  • Tướng cướp Bạch Hải Đường (vai Nhung) (với Hùng Cường)
  • Rạng ngọc Côn Sơn (vai Thị Lộ) (với Minh Vương)
  • Nắng sớm mưa chiều (vai Tuyết Minh) (với Hữu Phước)
  • Tình mẫu tử (vai người mẹ)

Phim đã tham gia

  • Lẵng hoa tình yêu
  • Khi đàn ông có bầu
  • Võ lâm truyền kỳ
  • Năm sau con lại về
  • Tấm Cám: Chuyện chưa kể
  • Sài Gòn anh yêu em

Tân nhạc, tân cổ & vọng cổ

Tiểu sử nghệ sĩ cải lương Vũ Linh

Những điều chưa biết về ” ông hoàng cải lương Hồ Quảng”  Vũ Linh

Vũ Linh tên thật là Võ Văn Ngoan, sinh ngày 10 tháng 12 năm 1958 tại Chợ Lớn, Sài Gòn, được khán giả biết đến với nhiều tuồng hát như Hòn vọng phuGiũ áo bụi đờiBức ngôn đồ Đại ViệtCô đào hátLương Sơn Bá… và hiện anh đang là nghệ sĩ ưu tú.

Thân thế và sự nghiệp

Xuất thân trong gia đình nghèo nên việc học hành dang dở, năm 13 tuổi, gia đình cho anh học hát ở trường Văn Phát, sau chuyển qua học ca cổ với Văn Vĩ. Năm 1972, anh theo đoàn hát Đồng Ấu Hoa Thế Hệ đi lưu diễn ở các tỉnh, một thời gian sau anh về hát cho gánh Hoa Anh Đào Kim Chưởng và gặp được nghệ sĩ ưu tú Diệu Hiền và nghệ sĩ Trương Ánh Loan, hai người này được cho là đã thương mến anh như con em trong nhà và tận tình chỉ dẫn anh trong nghề nghiệp.

                                                                                         NSUT Vũ Linh

Anh đã từng cộng tác với những đoàn hát khác như: Khánh Hồng An Giang, Thiên Nga, Sơn Minh…
Năm 1981, anh trở về thành phố lần đầu tiên và hát cho gánh Minh Tơ và Huỳnh Long.
Năm 1983, anh theo hợp tác với gánh Lâm Đồng đi lưu diễn các tỉnh.
Đến năm 1988, anh cộng tác với Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang 2 và chính năm này Vũ Linh thực sự bước lên đài vinh quang sau hơn 15 năm trong nghề, cũng chính nơi đây anh đã đưa nghệ thuật sân khấu cải lương tuồng cổ trở lại với quần chúng, bắt đầu bằng vở Xa phu đi sứ. Không lâu sau đó là một loạt những tuồng cải lương Hồ quảng nổi tiếng khác như Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, Bàng Quý Phi, Thần Nữ dâng Ngũ Linh Kỳ, Chiêu Quân cống Hồ….. Vài năm sau anh cũng có về cộng tác với các gánh Sông Bé 2, Sông Bé 3.
Năm 1989, đạt hạng nhì trong 10 diễn viên được ưa thích nhất trong năm.
Năm 1990, đạt hạng nhất trong 10 diễn viên được ưa thích nhất trong năm.
Năm 1991, đoạt Huy Chương Vàng giải Triển Vọng Trần Hữu Trang. Anh là nam nghệ sĩ duy nhất trong số 6 diễn viên đoạt giải năm đó (Vũ Linh, Thanh Thanh Tâm, Ngọc Huyền, Tài Linh, Phương Hồng Thủy, và Thanh Hằng).
Năm 1995, đoạt Huy chương Vàng giải xuất sắc Trần Hữu Trang. Đây là năm đầu tiên giải Trần Hữu Trang có phát thêm giải Diễn viên xuất sắc. Trích đoạn anh diễn khi đi dự thi là nhân vật Nguyễn Địa Lô trong tuồng Bức Ngôn Đồ Đại Việt.
Đến năm 1997, anh được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú.

                                                                     Ông hoàng cải lương Hồ Quảng

Vũ Linh đã quay trên 400 video cải lương hồ quảng và xã hội. Ngoài ra anh cũng tham gia rất nhiều trong những video ca nhạc như Duyên tìnhTình đời. Anh cũng tham gia diễn xuất trong 2 cuốn phim truyện, Cô Bé Mộng Mơ và Búp Bê Kỳ Quái. Vũ Linh đã diễn chung với nhiều nữ nghệ sĩ trên sân khấu cũng như trong video như: Phương Hồng Thủy, Tài Linh, Thanh thanh Tâm, Ngọc Huyền, Thoại Mỹ, Thanh Hằng, Thanh Ngân, Hương Lan, Phượng Mai…

Vũ Linh sinh ra trong gia đình có sáu anh chị em. Anh là người con thứ tư nên những người thân thuộc, anh em trong nhà gọi anh là Anh Năm. Hai người em của anh cũng trong giới nghệ sĩ, đó là Hồng Nhung và Tiểu Linh.

Các giải thương

  • Năm 1989: Diễn viên được yêu thích nhất (Hạng 2) với 2948 phiếu bầu.
  • Năm 1990: Danh ca vọng cổ với 1275 phiếu bầu.
  • Diễn viên được yêu thích nhất (Hạng 1) với 6644 phiếu bầu.
  • Nghệ sĩ cải Lương được yêu thích nhất (Báo Người Lao động)
  • Năm 1991: Diễn viên dự giải Triển Vọng THT được yêu thích nhất (Hạng 1) với 9204 phiếu bầu.
  • Huy chương vàng giải Triển Vọng THT.
  • Năm 1992: Ðôi nam nữ hát chung được yêu thích nhất (Hạng 2 với Tài Linh) với 7362 phiếu bầu.
  • Ðôi nam nữ hát chung được yêu thích nhất (Hạng 3 với Thanh Thanh Tâm) với 4275 phiếu bầu.
  • Nghệ sĩ cải Lương được yêu thích nhất (Báo Người Lao động)
  • Năm 1993: Diễn viên video được yêu thích nhất.
  • Năm 1995: Huy chương vàng giải Xuất sắc Trần Hữu Trang với trích đoạn “Bức Ngôn Đồ Đại Việt”.
  • Diễn viên xuất sắc (Tạp chí Sân khấu – Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam).
  • Mai vàng (Báo Người Lao Ðộng)
  • Năm 1997: Nghệ sĩ ưu tú.
  • Năm 1999: Giải Mai Vàng do Báo Người Lao động tổ chức.

Tiểu sử nghệ sĩ nhân dân Lệ Thủy

Cuộc đời và sự nghiệp của”  cô đào ngoại hạng ” Lệ Thủy

Bà tên thật là Dương Thị Lệ Thủy, về sau đổi thành Trần Thị Lệ Thủy, sinh ngày 20 tháng 05 năm 1948 trong một gia đình nông dân nghèo tại làng Đông Thành, huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long. Gia đình bà có 8 chị em, trong đó bà là chị cả.

Do cuộc sống khó khăn, từ nhỏ, bà đã theo gia đình lên Sài Gòn để mưu sinh. Năm 10 tuổi, nghệ sĩ nghiệp dư là Tư Long làm ở ban văn nghệ xóm bên tình cờ nghe bà ca vọng cổ, đã mời bà tham gia và gửi theo học ca cổ với thầy Năm Truyền làm thợ hớt tóc ở Khánh Hội. Sau đó, Lệ Thủy được gửi sang học bài bản cải lương 3 Nam, 6 Bắc với nhạc sĩ Tám Đen. Lúc đó các em của Lệ Thủy liên tục đau ốm, gia đình nợ nần tứ phía. Không tiếp tục đến trường được do không có khai sinh, Lệ Thủy đã phải làm việc sớm để phụ giúp gia đình và quyết, Lệ Thủy đã phải làm việc sớm để phụ giúp gia đình và quyết định xin đi theo làm việc ở gánh Trâm Vàng (Biên Hòa, Đồng Nai) để đỡ gánh nặng cho ba má.

                                                                               NSND Lệ Thủy

Với bài ca cổ Cô gái bán đèn hoa giấy, đầu tiên qua việc ngâm thơ hậu trường, đóng những vai kép con trên sân khấu… 13 tuổi, Lệ Thủy thế vai kép con trên đoàn Trâm Vàng, 14 tuổi, Lệ Thủy đóng các vai đào nhì. Một thời gian sau, Lệ Thủy rời Trâm Vàng để về Công ty Kim Chung của ông bầu Trần Viết Long, một đại bang có 7 đoàn hát. Tại sân khấu này Lệ Thủy đã được soạn giả Ngọc Văn nhận làm con nuôi, ông viết nhiều kịch bản đưa Lệ Thủy vào đóng từ vai phụ cho đến vai chính .

Sau những bước đi đầu tiên tạo được ấn tượng, ông bầu Trần Viết Long lập đoàn Kim Chung 3. Lệ Thủy chuyển sang đây diễn chung với nghệ sĩ Thanh Hải trong vở “Bẽ bàng duyên mới” của soạn giả Ngọc Văn. Tên tuổi của Lệ Thủy bắt đầu nổi lên, trở thành cô đào chính sáng giá lúc vừa tròn 15 tuổi.

                                                        NSND Lệ Thủy cùng NSUT Minh Vương

Sau đó, Lệ Thủy hát ở đoàn Kim Chung 5, tại đây Lệ Thủy đóng cặp với Minh Phụng tạo thành cặp đào – kép ăn ý, được báo chí thời đó phong tặng là cặp “Bão biển” vì mang lại doanh thu cao cho đoàn qua các vở Xin một lần yêu nhau, Đêm lạnh chùa hoang, Kiếp nào có yêu nhau

Năm 1975, Lệ Thủy gắn bó với Đoàn văn công Thành phố Hồ Chí Minh qua các vở diễn Cây sầu riêng trổ bôngTiếng sóng Rạch GầmKhi bình minh trở lại

Tháng 2 năm 1984, Lệ Thủy được vinh dự tham gia Đoàn nghệ sĩ lưu diễn Tây Âu cùng với nghệ sĩ Bạch Tuyết, Diệp Lang, Ngọc Giàu, Minh Vương… với các vở diễn Đời cô LựuCâu thơ yên ngựa… Báo chí thời đó gọi là “đem chuông đi đánh xứ người” đầu tiên sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Sau chuyến đi về, các nghệ sĩ trong đoàn đã hợp lại và thành lập nên Đoàn nghệ thuật 2-84. Vở Tô Ánh Nguyệt và Đời cô Lựu là hai vở tuồng khai trương cho đoàn 2-84. Ở sân khấu này, Lệ Thủy đã diễn các vở tuồng Tô Ánh NguyệtÁo cưới trước cổng chùa, Trắng hoa maiKiếp chồng chungLôi vũ

Những năm đầu 1990 Lệ Thủy chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực video cải lương. Một số vở cải lương từng gắn với tên tuổi nghệ sĩ Lệ Thủy khi hát ở đoàn Kim Chung 5 trước năm 1975 cũng được quay video như Đêm lạnh chùa hoangTây ThiMáu nhuộm sân chùa, Kiếp nào có yêu nhauBăng Tuyền nữ chúa,…. Sau thập niên 1990, nghệ sĩ Lệ Thủy đi lưu diễn thường xuyên ở các tỉnh miền Tây, các vùng sâu, đem tiếng hát của mình gần hơn với khán giả nông thôn.

                                                    “Cô đào ngoại hạng” của sân khấu cải lương

Sân khấu cải lương ngày càng gặp nhiều khó khăn. Bà cùng Diệp Lang và Minh Vương thành lập chương trình Những dấu ấn không phai trực thuộc Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang quy tụ các nghệ sĩ tham gia biểu diễn các vở tuồng kinh điển ngày xưa. Các vở diễn của chương trình như Giấc mộng đêm xuânTình mẫu tửMột ngày làm vuaĐêm giao thừa… Năm 2008, chương trình được hoạt động với tên gọi là nhóm xã hội hóa “Sân khấu vàng” trực thuộc Nhà hát Trần Hữu Trang nhằm tập hợp các nghệ sĩ tham gia biểu diễn đồng thời doanh thu từ chương trình dành vào cho hoạt động xây tặng nhà tình thương. Đến nay, “Sân khấu vàng” do Lệ Thủy và Minh Vương thành lập đã dựng các vở diễn như Sông dàiLá sầu riêngMột ông hai bàĐêm lạnh chùa hoang… và đã trao tặng hơn 30 căn nhà tình thương cho các gia đình khó khăn.

Hiện tại, Lệ Thủy vẫn cộng tác thường xuyên với Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang trong các chương trình biểu diễn phục vụ công chúng và tham gia đi show ở các tỉnh thành.

Các nam nữ nghệ sĩ mà Lệ Thủy đã hát, diễn chung: Minh Vương, Minh Phụng, Út Bạch Lan, Thanh Tuấn, Bạch Tuyết, Phượng Liên, Thanh Sang, Bảo Quốc, Thanh Ngân, Phượng Hằng, Trọng Hữu, Minh Cảnh, Tấn Tài, Huyền Trang, Phi Nhung, Diệp Lang, Thanh Kim Huệ, Ngọc Giàu, Trọng Phúc, Mỹ Châu,…

Danh hiệu, giải thưởng

  • Giải Thanh Tâm (năm 1964) cùng với Thanh Sang, Lệ Thủy cũng là nữ nghệ sĩ trẻ nhất đoạt giải này sau 10 lần tổ chức.
  • Giải Kim Khánh (1974)
  • Giải A1 Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc (1980).
  • Nghệ sĩ được yêu thích nhất năm 1989, hạng nhất với 4565 phiếu bầu chọn của độc giả báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
  • Danh ca vọng cổ được yêu thích nhất năm 1990, hạng 2 (sau Minh Vương) do báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
  • Nghệ sĩ được yêu thích nhất năm 1990, hạng 4 với 2664 phiếu bầu chọn của độc giả báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
  • Giải Đôi nam – nữ diễn viên cải lương được yêu thích nhất năm 1992 (cùng Minh Vương), với 7993 phiếu bầu chọn do báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
  • Nghệ sĩ đóng Video cải lương được yêu thích nhất năm 1992, hạng nhì trong top 10 (xếp sau Vũ Linh) với 4286 phiếu bầu chọn của đọc giả báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
  • Danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú đợt 3 năm 1993.
  • Kỷ lục Guinness Việt Nam 2008 cho Đôi bạn diễn lâu năm và ưng ý nhất (cùng Minh Vương).
  • Giải Mai vàng cho hạng mục Nữ diễn viên cải lương được yêu thích nhất do báo Người lao động tổ chức năm 2008 và 2009
  • Danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân đợt 7 năm 2012.
  • Giải thưởng truyền hình HTV Awards 2013 cho Nữ nghệ sĩ cải lương được yêu thích nhất.

Gia đình

Năm 1973, Lệ Thủy lập gia đình với một cử nhân kinh tế và đến nay đã có ba con. Người con trai thứ hai của bà sau khi tốt nghiệp đại học ở Úc đã về Việt Nam làm ca sĩ với nghệ danh Dương Đình Trí. Năm 2009, Dương Đình Trí tổ chức liveshow Bước chân hai thế hệ nhân dịp sinh nhật lần thứ 61 của mẹ mình.

                                                  NSND Lệ Thủy và con trai Dương Đình Trí

Nhận xét

Soạn giả Viễn Châu nhận xét: “Lệ Thủy có một giọng ca hiếm hoi trong làng cổ nhạc, với chất giọng kim pha thổ, đã từng được báo giới Sài Gòn trước đây phong tặng là giọng ca chuông ngân“. Năm 1964, khi soạn giả Viễn Châu kết hợp tân nhạc và cổ nhạc để tạo nên bản tân cổ giao duyên, ông đã chọn giọng ca Lệ Thủy thể hiện cho thử nghiệm này với bài hát Chàng là ai.

Diệp Lang nhận xét Lệ Thủy là “cô đào ngoại hạng” của sân khấu cải lương.

Một số tác phẩm tân cổ nổi danh

  • Áo mới Cà Mau (Tân nhạc: Thanh Sơn; cổ nhạc: Viễn Châu)
  • Bạch Thu Hà (Tác giả: Viễn Châu)
  • Bánh bông lan (Tác giả: Quế Chi – Viết Chung)
  • Bìm bịp kêu
  • Bông bí vàng (Nhạc: Bắc Sơn; lời vọng cổ: Dương Đình Trí)
  • Bức tranh hòa bình (Tân nhạc: Phạm Thế Mỹ; cổ nhạc: Loan Thảo)
  • Cánh thiệp đầu xuân (Nhạc: Lê Dinh – Minh Kỳ; lời vọng cổ: Hoàng Song Việt)
  • Cau Hà Châu têm trầu Xuân Mỹ
  • Cha ơi (Sáng tác: Dương Đình Trí)
  • Chàng là ai? (Tác giả: Viễn Châu)
  • Chiều lên bản Thượng
  • Chuyến tàu hoàng hôn (Nhạc: Hoài Linh – Minh Kỳ; lời vọng cổ: Loan Thảo)
  • Chuyện tình nàng Buram
  • Chuyến xe cuối tuần (Tác giả: Viễn Sơn)
  • Cô bán đèn hoa giấy (Tác giả: Quy Sắc)
  • Cô gái bán sầu riêng (Tác giả: Viễn Châu)
  • Cô gái Đồ Long
  • Cô hàng chè tươi
  • Con gái của mẹ (Tân nhạc: Giao Tiên; cổ nhạc: Loan Thảo)
  • Cơn mê tình ái
  • Còn tìm đâu nữa
  • Còn tìm đâu nữa
  • Đêm trao kỷ niệm
  • Dòng sông quê em (Tân nhạc: Trương Quang Lục; cổ nhạc: Huyền Nhung)
  • Đường về hai thôn
  • Duyên quê
  • Duyên tình
  • Em bé đá
  • Em bé đánh giày (Tác giả: Thu An)
  • Em thương người nghệ sĩ
  • Ga chiều
  • Gặp lại cố nhân
  • Giấc ngủ đầu nôi
  • Hái hoa
  • Hành trình trên đất phù sa (Tân nhạc: Thanh Sơn; lời vọng cổ: Dương Đình Trí)
  • Hát về sông Bé
  • Hoa trinh nữ
  • Hương cau quê ngoại
  • Khổ tâm
  • Lá sầu riêng (Nhạc: Hoàng Cầm – Nguyễn Chi; lời vọng cổ: Viễn Châu)
  • Lá trầu xanh (Tác giả: Viễn Châu)
  • Lan và Điệp (Sáng tác: Viễn Châu)
  • Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài
  • Lý chim quyên (Sáng tác: Loan Thảo)
  • Lý ngựa ô
  • Mất nhau rồi
  • Mẹ tôi (Tân nhạc: Nhị Hà; cổ nhạc: Đình Trí)
  • Mơ hoa (Nhạc: Hoàng Giác; lời vọng cổ: NSƯT Xuân Hỷ)
  • Mưa trên phố Huế
  • Nấu bánh đêm xuân (Sáng tác: Quy Sắc)
  • Ngày em về thăm quê tôi
  • Ngợi ca quê hương em (Nhạc: Thanh Sơn; lời vọng cổ: Đình Trí)
  • Nhất kiếm bá vương
  • Tấm ảnh không hồn
  • Thành phố buồn
  • Thương hoài ngàn năm (Sáng tác: Dương Đình Trí)
  • Thương màu áo lam (Tân nhạc: Vũ Ngọc Toản; cổ nhạc: Bạch Tuyết)
  • Thương nhau lý tơ hồng (Nhạc: Trương Quang Tuấn; lời vọng cổ: Viễn Châu)
  • Tiền và lá
  • Tình ca quê hương (Nhạc: Việt Lang; lời vọng cổ: Bạch Tuyết)
  • Tình đẹp mùa chôm chôm
  • Tình xuân (Tác giả: Hoàng Song Việt)
  • Trái tim Đồ Chiểu
  • Trăng tàn trên hè phố
  • Trên dòng sông Hậu
  • Ước nguyện đầu xuân
  • Về chung một mái nhà (Nhạc: Xuân Tiên – Y Vân; lời vọng cổ: Nguyễn Thiên Đặng)
  • Xe hoa cách biệt
  • Xin gọi nhau là cố nhân
  • Xuân đẹp làm sao (Tân nhạc: Thanh Sơn; cổ nhạc: Dương Đình Trí)

Ngoài ra, còn có các bài tân nhạc như

  • Miền Tây quê tôi (Cao Minh Thu)
  • Nỗi buồn mẹ tôi (Nhạc: Minh Vy)
  • Hồn quê
  • Thương lắm quê tôi
  • Tết miền Tây (Nhạc: Cao Minh Thu)

Các vai diễn

  • Đêm lạnh chùa hoang (vai Bảo Xuyên)
  • Kiếp nào có yêu nhau (vai Quế Minh)
  • Xin một lần yêu nhau (vai Hồ Như Thủy)
  • Mùa xuân ngủ trong đêm (vai Bạch Thiên Hương)
  • Tây Thi gái nước Việt (vai Tây Thi)
  • Tái sanh duyên (vai Mạnh Lệ Quân)
  • Quán khuya sầu viễn khách (vai Cam Thúy Nguyệt)
  • Mưa rừng (vai K’Lai)
  • Hoa Mộc Lan tùng chinh (vai Hoa Mộc Lan)
  • Lá trầu xanh (vai Thắm)
  • Dạ Xoa hoàng hậu (vai Chung Vô Diệm)
  • Tiêu Anh Phụng (vai Công chúa)
  • Cây sầu riêng trổ bông (vai Hạnh)
  • Tô Ánh Nguyệt (vai Nguyệt)
  • Đời cô Lựu (vai Kim Anh)
  • Tiếng trống Mê Linh (vai Trưng Nhị)
  • Nửa đời hương phấn (vai Diệu)
  • Lan và Điệp (vai Lan)
  • Vị đắng lá sầu đâu (vai Huệ)
  • Kiếp chồng chung (vai Hương)
  • Trắng hoa mai (vai Thiên Kiều)
  • Áo cưới trước cổng chùa (vai Xuân Tự)
  • Máu nhuộm sân chùa (vai Bạch Thiên Nga)
  • Người phu khiêng kiệu cưới (vai Cát Mộng Thiên Lan)
  • Dốc sương mù (vai Xuyên Đảo Phương Tử)
  • Lôi vũ (vai Lỗ Tứ Phượng)
  • Lá sầu riêng (vai Diệu)
  • Quán khuya sầu viễn khách (vai Thánh cô)
  • Hàn Mặc Tử (vai Mai Đình)
  • Cô gái Đồ Long (vai Chu Chỉ Nhược)

Tiểu sử nghệ sĩ Bạch Tuyết

Đôi nét về tiến sĩ cải lương đầu tiên của Việt Nam

Nghệ sĩ Bạch Tuyết tên thật là Nguyễn Thị Bạch Tuyết, sinh 24 tháng 12 năm 1945 tại làng Khánh Bình, Châu Ðốc (nay thuộc xã Khánh An, huyện An Phú), tỉnh An Giang). Từ thuở còn đi học đã bộc lộ năng khiếu ca, ngâm, thường được các thầy cô đưa lên trình diễn trong những đêm văn nghệ.


Nữ nghệ sĩ cải lương danh tiếng Bạch Tuyết

Mồ côi mẹ năm 9 tuổi (1955), và bắt đầu đi hát ở những nhà hàng ca nhạc bằng những bài tân nhạc như “Nắng đẹp miền Nam”, “Làng tôi”, “Tiếng còi trong sương đêm”…

Cũng như những bạn cùng lứa, Bạch Tuyết rất hâm mộ nghệ sĩ Thanh Nga. Trong một lần gặp gỡ, nghệ sĩ Thanh Nga nhận xét rằng Bạch Tuyết rất có khiếu hát cải lương, lời khích lệ đó là một trong những động lực đưa bà đến với nghiệp hát xướng.

Nghệ sĩ Bạch Tuyết – Ảnh: Nguồn Internet
Năm 1960, Bạch Tuyết vào học trường nội trú của các ma-sơ Công giáo, thời gian này bà giao du học hỏi với nhiều nghệ sĩ, trong đó có soạn giả Điêu Huyền. Nhờ đó tên tuổi của bà dần được xuất hiện trên các đài phát thanh, trên báo chí. Điêu Huyền nhận bà làm con nuôi, cho gia nhập đoàn Kiên Giang, sự kiện này giúp đỡ bà rất nhiều trong bước đường sau này.

Bạch Tuyết với nhiều vai diễn để đời

Năm 1961, đoàn Kiên Giang diễn vở “Lá thắm chỉ hồng”, cô đào chính tới trễ, khiến Bạch Tuyết bất ngờ được giao vai cô lái đò Lệ Chi, diễn xuất của bà khiến khán giả hết sức ngạc nhiên. Sau đó là những vở “Kiếp chồng chung”, “Suối mơ rền áo cưới”… Bà được Út Trà Ôn mời về đoàn Thống Nhất, với vở “Tiếng hát Muồng Tênh”, tên tuổi bà bắt đầu nổi.

Tuy đi hát, nhưng bà lại rất thích đi học. Đang hát và nổi tiếng với Đoàn Thống Nhất, thì bà nghỉ nửa năm để ôn thi Tú Tài. Sau này, bà cũng nhiều lần đang hát thì nghỉ ngang như thế, để đi học.

Tiến sĩ nghệ thuật cải lương đầu tiên của Việt Nam
Cuối năm 1962, bà vào đoàn Bạch Vân. Năm sau được nhận giải Thanh Tâm cho diễn viên triển vọng.

Năm 1964, bà về hát cho đoàn Dạ Lý Hương, hợp tác với các soạn giả danh tiếng bấy giờ là Hà Triều – Hoa Phượng, tài năng của bà càng được khẳng định. Năm sau, vở “Tần Nương Thất” đã mang lại cho bà huy chương vàng giải Thanh Tâm cho nghệ sĩ xuất sắc.

Năm 1966, Hùng Cường gia nhập đoàn Dạ Lý Hương, cùng với Bạch Tuyết tạo thành 1 cặp đôi hoàn hảo trong mắt khán giả. Bà ở lại đoàn Dạ Lý Hương thêm 2 năm nữa.

Sau năm 1968, tình hình chiến tranh lan rộng, bà ngừng hát một thời gian. Đến năm 1971, cùng với Hùng Cường, mở gánh hát Hùng Cường – Bạch Tuyết (sau này đổi thành Đoàn ca kịch Bạch Tuyết), diễn các vở kinh điển như: “Trăng Thề Vườn Thúy“, “Má Hồng Phận Bạc”, “Cung Thương sầu nguyệt hạ“. Gánh hát này được rất đông người hâm mộ, tuy nhiên do không biết cách quản lý, sau 1 thời gian đã ngưng hoạt động. Sau đó bà chuyển sang học Luật.

Bạch Tuyết được tôn danh NSND

Năm 1985 (40 tuổi), Bạch Tuyết bước vào giảng đường đại học và có được bằng Cử nhân Ngữ văn.

Năm 1988, được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú, cũng năm này bà tốt nghiệp khoa đạo diễn ở Viện hàn lâm Sân khấu và Điện ảnh tại Sofia – Bulgaria.

Năm 1995, bà bảo vệ luận án Tiến sĩ với đề tài “Sự thích nghi của nghệ thuật sân khấu dân tộc cổ truyền của các quốc gia Đông Nam Á”, trở thành tiến sĩ nghệ thuật Cải lương đầu tiên của Việt Nam.

Năm 2012, bà được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân ở lần xét duyệt thứ 7 (năm 2011)

Những vai diễn đáng nhớ

Thái hậu Dương Vân Nga
Lệ Chi trong vở “Lá thắm chỉ hồng
Loan trong vở “Đoạn tuyệt
Cô Lựu trong vở “Đời cô Lựu
Trường An trong vở “Tuyệt tình ca
Tần nương trong vở “Tần Nương Thất
Lý Chiêu Hoàng trong vở “Lý Chiêu Hoàng
An Tư trong vở “Thượng hoàng Trần Nhân Tông
Kiều Nguyệt Nga trong vở “Lục Vân Tiên
Bà Xinh trong vở “Nguyệt Khuyết
Bà Hạnh trong vở “Tóc mai sợi vắn

CD, băng nhạc
Kim Vân Kiều
Kinh Pháp Cú
Đức Phật Thích ca
Kiều Nguyệt Nga
Đời cô Lựu
Thái hậu Dương Vân Nga
Mùa thu lá bay

Các bài tân cổ giao duyên, vọng cổ

Tình ca đất phương Nam
Núm ruột quê hương
Tình sầu
24 giờ phép
Tình ca quê hương
Đau xót lý chim quyên (Tân nhạc: Vũ Đức Sao Biển)
Lối mộng thiền xưa
Thương màu áo lam
Miền nhớ
Chuyến tàu hoàng hôn (Tân nhạc: Hoài Linh, Minh Kỳ)
Bạch Thu Hà (Tác giả: Viễn Châu)
Bông hồng cài áo
Thêu áo như lai
Dương Quý Phi (Tác giả: Viễn Châu)
Đêm Gành hào nghe điệu hoài lang (Nhạc: Vũ Đức Sao Biển)
Dạ cổ hoài lang (Tác giả: Cao Văn Lầu)

Bài tân nhạc do bà viết lời vọng cổ

Bông hồng cài áo
Thêu áo như lai
Thương màu áo lam
Miền nhớ
Tình ca đất phương Nam
Chuyến tàu hoàng hôn
Mưa nửa đêm
Tình ca quê hương
Chuyến tàu hoàng hôn
Đau xót lý chim quyên
Trăng về thôn dã

Những phim tham gia

Như hạt mưa sa (1971)
Như giọt sương khuya (1972)
Lan và Điệp
Con ma nhà họ Hứa (1973)

Thông tin về đời tư

Bà từng tìm cách quyên sinh 3 lần nhưng bất thành.
Bà từng quy y Tam bảo Phật giáo với pháp danh Diệu Lộc.
Bà kết hôn lần đầu tiên với danh thủ bóng đá Phạm Huỳnh Tam Lang năm 1967. Cuộc hôn nhân tan vỡ năm 1974 vì lý do riêng tư. Hai người không có con chung. Cho đến mãi về sau này 2 người đều dành cho nhau những lời tốt đẹp.
Sau khi ly dị, cũng ngay trong năm 1974, bà lập gia đình lần thứ 2 với ông Charles Đức, một Việt kiều quốc tịch Pháp. Ông bà có với nhau một người con trai tên là Bảo Giang Valery Bauduin, hiện đang công tác ở Mỹ.

Tiểu sử nghệ sĩ cải lương Thanh Nga

Cuộc đời và sự nghiệp của ” nữ hoàng sân khấu”  nghệ sĩ cải lương Thanh Nga
Nghệ sĩ Thanh Nga tên thật Juliette Nguyễn Thị Nga, sinh ngày 31 tháng 7 năm 1942, quê quán ở Tây Ninh. Cha của bà là Nguyễn Văn Lợi, mẹ của bà là Nguyễn Thị Thơ, tức bà bầu Thơ, trưởng đoàn hát Thanh Minh Thanh Nga nổi tiếng một thời. Thanh Nga là một Phật tử, có pháp danh Diệu Minh.


Cố nghệ sĩ cải lương Thanh Nga

Thanh Nga kết hôn hai lần, lần đầu với ông Nguyễn Minh Mẫn (sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa), lần sau làm vợ thứ (không chính thức) với ông Phạm Duy Lân tức hiệu là Đổng Lân vì ông đã từng giữ chức Đổng Lý Văn phòng của Bộ Thông tin trong Đệ Nhị Cộng hòa của miền nam VNCH (luật sư). Bà có 1 con trai (với ông Lân) là Phạm Duy Hà Linh (sinh 1973, nay là nghệ sĩ hài kịch).

Thanh Nga – từng được mệnh danh là bà hoàng sân khấu thời ấy
Gia đình Thanh Nga còn có nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như:
Năm Nghĩa (cha dượng)
Bảo Quốc (em cùng mẹ khác cha)
Hữu Châu (cháu ruột, con nghệ sĩ Hữu Thìn)
Hữu Lộc (cháu ruột, con nghệ sĩ Hữu Thìn)
Hà Linh (con trai)
Bà bị sát hại cùng chồng ngày 26 tháng 11 năm 1978 tại nhà ở đường Ngô Tùng Châu, quận Nhất (nay là đường Lê Thị Riêng) Thành phố Hồ Chí Minh[3], được an táng tại nghĩa trang Chùa Nghệ sĩ.


Vẻ đẹp ‘vạn người mê’ của cố nghệ sĩ Thanh Nga một thuở.

Giải thưởng tiêu biểu

1958: Giải Thanh Tâm triển vọng (vai sơn nữ Phà Ca, vở Người vợ không bao giờ cưới)
1966: Giải Thanh Tâm xuất sắc (vai Giáng Hương, vở Sân khấu về khuya)
1984: Truy phong Danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú
2007: Một bộ phim tài liệu về cuộc đời và sự nghiệp diễn xuất của Bà đã được cựu diễn viên – nhà báo Lê Quang Thanh Tâm thực hiện với tên gọi “Nữ hoàng sân khấu Thanh Nga” qua giọng đọc của Bạch Tuyết do Đạo diễn Võ Văn Thanh Trí dàn dựng và Hãng phim MDC Entertainment thâu và dựng.
2015: Một con đường được vinh dự mang tên Bà, đó là Đường Thanh Nga thuộc khu dân cư Gia Hòa, phường Phước Long B, Quận 9, TP Hồ Chí Minh.

Các vai diễn nổi bật
Cải lương
Bé Nghi Xuân (trong vở Phạm Công – Cúc Hoa)
Bàng Lộng Ngọc(trong vở Khói sóng tiêu tương)
Bàng Quý Phi (trong vở Xử án Bàng Quý Phi)
Bà mẹ cách mạng (trong vở Sau ngày cưới)
Điêu Thuyền (trong vở Phụng Nghi Đình)
Dương Thái Chân (trong vở Chuyện tình An Lộc Sơn)
Diệu Thiện (trong vở Ni cô Diệu Thiện)
Diệp Thúy (trong vở Đôi mắt người xưa)
Dương Vân Nga (trong vở Thái hậu Dương Vân Nga)
Lượm (trong vở Sông Dài)
Kim Anh (trong vở Đời cô Lựu)
Mía (trong vở Bọt biển)
Nga (trong vở Bông hồng cài áo)
Giáng Hương (trong vở Sân khấu về khuya)
Hoa Mộc Lan (trong vở Hoa Mộc Lan tùng chinh)
Hoàng hậu Mã Nhi Nương Bửu (trong vở Gió ngược chiều)
Hương (trong vở Nửa đời hương phấn)
Quỳnh Nga (trong Bên cầu dệt lụa)
Sơn nữ Phà Ca (trong vở Người vợ không bao giờ cưới)
Tuyết Vân (trong vở Nắng sớm mưa chiều)
Thanh (trong vở Tấm lòng của biển)
Trinh (trong vở Con gái chị Hằng)
Trưng Trắc (trong vở Tiếng trống Mê Linh)
Uyên (trong vở Ngã rẽ tâm tình)
Vân (trong vở Bóng tối và ánh sáng)
Xuân Tự (trong vở Áo cưới trước cổng chùa)
Xuyên Lan (trong vở Tiếng hạc trong trăng)

Ca cổ
Quả tim bất diệt
Hoa mua trắng
Dưới bóng từ bi
Lan và Điệp
Hồi chuông Thiên Mụ
Mái tóc thề
Mưa rừng (Tác giả: Huỳnh Anh)
Thành Đô ơi giã biệt
Bông sen
Người chồng lý tưởng

Phim ảnh
Thanh Nga cũng tham gia nhiều bộ phim, đáng chú ý nhất là:
Đôi mắt người xưa (vai Diệp Thúy)
Hai chuyến xe hoa
Loan mắt nhung (vai Xuân – 1970)
Mùa thu cuối cùng (1971)
Bụi Phấn Hồng
Vết thù trên lưng ngựa hoang (1971)
Lan và Điệp (vai Lan – 1971)
Xa lộ không đèn (vai Liễu – 1972)
Sau giờ giới nghiêm (vai Nhàn – 1972)
Người cô đơn  (1972)
Nắng chiều (cô gái Huế) (1973)
Triệu phú bất đắc dĩ (1973)
Năm vua hề về làng (1974)
Quái nữ Việt Quyền Đạo
Thương muộn
Tìm lại cuộc đời (1977)

Câu “Hồng nhan bạc mệnh” như dành riêng cho cuộc đời của cố nghệ sĩ Thanh Nga. Mặc dù ra đi ở tuổi đời còn rất trẻ nhưng tên tuổi và những đóng góp của bà vẫn còn mãi với thế hệ sau.

 

Tuổi già an nhàn của Xúy Vân ” Diễm Lộc”

Nghệ sĩ chèo nổi danh một thời sống bình an với tiếng kinh kệ mỗi ngày và vui vầy trong tình bạn già.

Ở tuổi gần 80, Nghệ sĩ Nhân dân Diễm Lộc gây ấn tượng với người đối diện qua vẻ ngoài đôn hậu, nụ cười luôn toát lên vẻ lạc quan, dễ gần. Đôi lúm đồng tiền vẫn còn giữ nguyên nét duyên trên má “Nàng Xúy Vân” một thời.
NSND Diễm Lộc bên những bức hình kỷ niệm.
NSND Diễm Lộc bên những bức hình kỷ niệm.
Sống theo châm ngôn “Cơm sôi bớt lửa, người khôn bớt lời”, bà luôn cười hiền từ mỗi khi ôn lại đoạn đời nhiều gian truân. Hôn nhân đổ vỡ năm 31 tuổi, nghệ sĩ một mình nuôi con và ở vậy đến giờ. Bà bảo không đi bước nữa vì muốn dành trọn tình cảm cho các con. Ngày ấy, ở tuổi 48, NSND Diễm Lộc nhận quyết định về hưu non. Suốt một thời gian dài, chưa một giây phút nào, giấc mơ sân khấu thôi ám ảnh, day dứt trong lòng bà.
NSND Diễm Lộc để lại nhiều dấu ấn khi còn công tác tại Nhà hát Chèo Việt Nam. Hóa thân vào vai Thị Màu, bà là người đầu tiên sáng tạo ra cách cài hoa lên tai. Sau này, nhiều nghệ sĩ trẻ học tập và vận dụng chi tiết cài hoa vào nhiều vai diễn khác. Bà cũng gây ấn tượng với điệu hát, tiếng cười man dại khi đóng Xúy Vân trong Xúy Vân giả dại. Diễm Lộc tâm sự thuở đầu sự nghiệp, bà vẫn chưa được Nhà hát giao vai này. Tuy nhiên, những lúc ngồi trong cánh gà, bà luôn hướng mắt lên sân khấu và lúc nào cũng hóa trang như diễn viên chính để sẵn sàng lên diễn nếu được yêu cầu.
Từ khi xa sân khấu chèo, bà bén duyên truyền hình. Diễm Lộc xuất hiện trong hình ảnh người phụ nữ đức hạnh với tính cách nhẹ nhàng và lối diễn xuất mang chiều sâu nội tâm trong Đường đời, Dòng sông phẳng lặng, Nắng chiều, Mùa lá rụng, Vệt nắng cuối trời, Lều chõng…
Nhiều đạo diễn đánh giá NSND Diễm Lộc có lối diễn xuất tự nhiên và phong cách làm việc chuyên nghiệp. Đạo diễn Đỗ Đức Thành từng ngạc nhiên khi bà ra trường quay với tay không. Khi anh hỏi: “Sao chị không mang kịch bản đi?”, NSND hóm hỉnh: “Thưa đạo diễn, kịch bản tôi cho hết vào trong bụng rồi. Bây giờ đạo diễn muốn diễn tập nào tôi sẽ đọc thoại tập đó”. Dù trên sân khấu hay truyền hình, bà đều cần mẫn và sống bằng cái tâm. Bà giành danh hiệu “Nữ diễn viên xuất sắc” tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 13 với vai bà Bơ trong phim Nắng chiều. Lúc ấy, tuổi bà đã ngoài 60.
Khi câu lạc bộ những nghệ sĩ về hưu của Nhà hát Chèo Việt Nam được thành lập, Diễm Lộc cùng đồng nghiệp được mời đi diễn ở địa phương, dạy diễn xuất cho các đoàn và luyện thi tài năng trẻ. Bà bảo thứ cốt yếu để nghệ sĩ thành công với nghề chính là “lửa”. Bất kể trên sân khấu hay sàn tập, người làm nghề phải rèn luyện đức tính cần mẫn và có tinh thần cầu thị.
“Để có Diễm Lộc của ngày hôm nay, tôi đã lao động quên mình, học tập các nghệ nhân, các đồng nghiệp, đôi khi học cả học trò. Tài năng chỉ có một phần trăm, còn chín mươi phần trăm là lao động sáng tạo”, bà tâm sự.
Một buổi sáng đầu thu, tại căn hộ nhỏ ở Hà Nội, bà hớn hở đón tiếp những người bạn lâu ngày đến thăm.
Nhà cửa thường ngày vắng vẻ, con cái đi làm nên khách đến nhà là món quà tinh thần với NSND Diễm Lộc. Mở cửa đón bạn, bà hài hước nói: “Xin chào tình yêu của tôi”. Sẵn hoa quả trong bếp, bà tự tay ép đồ uống mời khách. Bạn bè tấm tắc khen NSND không những có tài nấu ăn giỏi, chu đáo việc nhà mà còn quan tâm đến sức khỏe người xung quanh. Thấy khách bị ho, bà liền vào phòng, đem ra bài thuốc dân gian, dặn tỉ mỉ về nơi mua dược liệu và cách uống.
Cuộc trò chuyện rôm rả của những người bạn già xoay quanh vấn đề sức khỏe, cách giữ tinh thần và niềm vui sống. Một ngày của bà thường bắt đầu vào lúc bốn giờ sáng. Bà dậy, tản bộ một vòng quanh Hồ Gươm rồi ghé vào chợ mua đồ ăn cho cả gia đình. Khi không ra ngoài hàn huyên với bạn bè, NSND Diễm Lộc ở nhà làm bạn với thiên nhiên. Căn phòng của bà xanh mát những giỏ cây. Chúng được nghệ sĩ tỉa tót và chăm sóc hàng ngày.
Bạn bè nhận định NSND Diễm Lộc nhanh nhẹn và dẻo dai ở tuổi 80 là vì sống theo phong thái người tu hành. Bà ăn chay và dành thời gian trong ngày để tụng kinh tại gia. Nghệ sĩ tâm niệm buông bỏ mọi phiền não để lấy sự thanh tịnh, muốn cuộc đời bình an thì nên biết sống vừa đủ, không sân si.
Ở góc phòng, bà có một tủ sách nhỏ cất trữ nhiều thể loại như kinh Phật, bài thuốc dân gian, các tạp chí sân khấu… Đầu giường là cuốn từ điển Hán Văn đang mở. Gần đây, NSND Diễm Lộc có thú vui tìm hiểu về vốn văn hóa cổ của dân tộc. Bà hào hứng khoe: “Mỗi ngày tôi tự học một chữ rồi luyện viết vì đầu óc bây giờ lúc nhớ lúc quên. Đến nay, chữ tôi viết ra đẹp lắm”.
NSND Diễm Lộc sinh năm 1938 ở Ba Vì, Hà Nội. Tên tuổi của bà gắn liền với các vai diễn: Chị Ba Đẹp trong Lọ nước thần của tác giả Trần Vượng, nàng Châu Long trong vở chèo cổ Lưu Bình Dương Lễ, Thị Màu trong Quan Âm Thị Kính, Tấm trong Tấm Cám… Với vai Xúy Vân trong Xúy Vân giả dại, bà giành huy chương vàng tại Hội diễn sân khấu năm 1962. Năm 2016, bà được nhà nước trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân.

Nguồn: Sưu tầm Internet

Ngọc Huyền được cấp phép biểu diễn tại Việt Nam sau 15 năm

Ngày 20/10 sắp tới, nghê sĩ Ngọc Huyền sẽ chính thức có một đêm nhạc riêng với chủ đề “Trăm nhớ ngàn thương” tại TP Hồ Chí Minh.

Đại diện Ngọc Huyền cho biết nghệ sĩ được cấp phép biểu diễn tại phòng trà We vào ngày 20/10. Đây không chỉ là đêm nhạc khán giả yêu mến gặp gỡ, giao lưu với Ngọc Huyền mà còn là dấu mốc đáng nhớ của Ngọc Huyền khi cô chính thức được cấp phép biểu diễn ở Việt nam.


Ngọc Huyền, làng sao

                                                                               Nghệ sĩ Ngọc Huyền

Theo tìm hiểu của VietNamNet, nghệ sĩ Ngọc Huyền đã được cơ quan có thẩm quyền cấp phép biểu diễn tại Việt Nam từ ngày 15/9/2017 – 31/12/2017 tại Việt Nam.

Ngọc Huyền chia sẻ, cô rất vui vì chờ đợi bao nhiêu năm mới có một đêm nhạc riêng gặp gỡ khán giả quê nhà. Chính vì thế, cô đã chuẩn bị kỹ lưỡng các bài tân nhạc lẫn cổ nhạc để đáp lại sự yêu mến của khán giả.

Ngọc Huyền dự định thể hiện các bài: Đêm tâm sự, Duyên phận, Con đường xưa em đi, Chiếc áo bà ba, 7 ngày đợi mong, Trăm nhớ ngàn thương, Tình đời, Thu sầu, Mưa nửa đêm, Hà Tiên , Kiếp nghèo, Tâm sự đời tôi, Khóc thầm, Chiều qua phố cũ … và một tiết mục cải lương thật bùng nổ dành cho khán giả.

Ngọc Huyền, làng sao

Nghệ sĩ Ngọc Huyền tên đầy đủ là Vũ Hà Ngọc Huyền, sinh năm 1970 tại Sài Gòn. Cô đi hát từ năm 14 tuổi và có nhiều thành tích như hai huy chương vàng hội diễn chuyên nghiệp toàn quốc (1990, 2000), huy chương vàng Trần Hữu Trang (1995-1996), Diễn viên được yêu thích nhất của giải Mai Vàng (1995-1997, 2002)… Năm 2001, cô được trao danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú.

Giữa năm 2002, sau thời gian sang Mỹ biểu diễn bằng con đường du lịch, Ngọc Huyền ở lại và lập gia đình. Tại hải ngoại, bên cạnh hát cải lương, cô còn thử sức hát tân nhạc và được đông đảo bà con kiều bào đón nhận và tạo được nhiều dấu ấn.

Nguồn: Internet

NSUT Kim Tử Long: ” Tôi chưa muốn con đi thi Gameshow”

NSƯT Kim Tử Long tiết lộ con trai của anh, bé Hoàng Gia Khánh, biết hát từ năm 2 tuổi và sớm bộc lộ nhiều năng khiếu về nghệ thuật. Tuy nhiên, nam nghệ sĩ chưa muốn để con tham gia vào các gameshow hiện nay.

Vợ chồng NSƯT Kim Tử Long và bé Gia Khánh trong buổi ra mắt chương trình

Là giám khảo khách mời trong chương trình Sao nối ngôi – phiên bản thiếu nhi, NSƯT Kim Tử Long cùng bà xã – nghệ sĩ cải lương Trinh Trinh và con trai Hoàng Gia Khánh (4 tuổi) đã có mặt trong buổi ra mắt chương trình vào sáng 16.8. Bé Gia Khánh đã sớm bộc lộ năng khiếu nghệ thuật và “gây sốt” với những clip hát ngẫu hứng trên mạng. Chính vì thế, nhiều người tưởng rằng bé sẽ tham gia chương trình này.

Tuy nhiên, chia sẻ với phóng viên, NSƯT Kim Tử Long cho biết bé còn quá nhỏ, chưa đủ tuổi tham gia. Bản thân anh cũng không muốn con vào showbiz quá sớm. “Thật lòng tôi chưa muốn con đi thi các gameshow truyền hình mà muốn con học thật giỏi. Nếu bé thật sự có duyên với nghề và được tổ nghiệp dẫn dắt thì tôi sẽ để bé đến với nghệ thuật một cách tự nhiên chứ bản thân tôi không hướng con theo nghề”, NSƯT Kim Tử Long chia sẻ.
Dàn thí sinh và ê-kip thực hiện chương trình Sao nối ngôi phiên bản thiếu nhi
Anh tiết lộ, từ năm 2 tuổi, bé Gia Khánh nói chưa rành nhưng đã biết hát và cảm âm rất tốt. Do thừa hưởng “máu nghệ thuật” của cả bố và mẹ nên Gia Khánh không chỉ biết ca hát mà còn biết múa và diễn xuất. “Tôi nghĩ rằng đến năm 6-7 tuổi, khi bé có sự cảm nhận rõ hơn và biết tự kiểm soát bản thân mình, tôi mới hướng con theo đúng sở thích, sở trường của mình. Cái gì cũng phải thuận tự nhiên. Có người làm nghề mười mấy hai mươi năm không nổi tiếng nhưng chỉ cần ánh hào quang rọi đến là tự khắc tỏa sáng”.
Sao nối ngôi – phiên bản thiếu nhi là cuộc thi tài năng của con cái các nghệ sĩ trong độ tuổi từ 5 – 13 tuổi. Các thí sinh của chương trình là những hậu duệ trong các gia đình nghệ thuật như Hữu Tấn (12 tuổi) – con trai của ca sĩ Đông Đào; Bào Ngư (9 tuổi) – con gái của nhạc sĩ Yên Lam; Ngọc Tâm (11 tuổi) – con gái của nghệ sĩ Cẩm Hiền, cháu ngoại nghệ sĩ Trang Thiên Lý; Gia Nguyên (11 tuổi) – con trai của NSƯT Lê Hồng Thắm và nghệ sĩ Thanh Phong; Khánh Nhi (10 tuổi) – con gái nuôi của danh hài Khánh Nam; Phương Vy (7 tuổi) – con gái của nghệ sĩ múa Phương Luân và Hồng Phương (nữ vũ công sáng lập nên vũ đoàn ABC Angel và là biên đạo múa cho các ca sĩ nổi tiếng hiện nay).
Mỗi tiết mục của các thí sinh đều có sự đồng hành, trợ giúp hay tham gia biểu diễn của cha mẹ các bé và các khách mời nổi tiếng. Ban giám khảo gồm NSND Hồng Vân, nghệ sĩ Thanh Bạch, tổng đạo diễn – MC Đình Toàn. Mỗi đêm thi sẽ có thêm một giám khảo khách mời và 100 khán giả cùng chấm điểm. Chương trình sẽ lên sóng THVL1 từ 24.8.
                                                                                                                                Thiên Hương(THVL)

Ca nhạc sĩ Thanh Phong lần đầu về nước làm giám khảo cuộc thi hát Bolero

Đây là lần đầu tiên, ca nhạc sĩ hải ngoại Thanh Phong lần đầu về nước làm giám khảo cuộc thi “Tình Bolero phiên bản nghệ sĩ 2017”.

8 nghệ sĩ tham gia chương trình
Các giám khảo khách mời của chương trình “Tình Bolero phiên bản nghệ sĩ 2017”

Buổi ra mắt chương trình Tình Bolero phiên bản nghệ sĩ 2017 vừa diễn ra vào sáng nay tại phim trường Truyền thông Khang, có sự góp mặt của nữ danh ca Phương Dung, danh ca Giao Linh, danh ca Họa Mi, ca nhạc sĩ Thanh Phong, NSƯT Vũ Thành Vinh, ca sĩ Đông Đào,  cùng 8 nghệ sĩ tham gia tranh tài trong mùa 2 của chương trình gồm: nghệ sĩ Vũ Thanh, nữ diễn viên điện ảnh Lý Hương, diễn viên Huỳnh Đông, diễn viên Thanh Trúc, MC/Biên tập viên Quốc Bình, người mẫu – Hoa hậu ảnh năm 2000 Yến Nhi, diễn viên – người mẫu Thanh Thức và Á hậu Đại dương Hà Thu. Đây là chương trình thứ 4 về dòng nhạc bolero của Đài THVL và Công ty Truyền thông Khang, bên cạnh 3 chương trình khác là: Solo cùng Bolero, Kịch cùng Bolero và Tình Bolero Hoan Ca.

Danh ca Giao Linh và Thanh Phong

Có mặt trong chương trình, ca nhạc sĩ Thanh Phong cho rằng sau năm 1975, ông nghĩ rằng dòng nhạc bolero đã chết cho nên ông cũng chết theo. Đó là lý do mà nhiều năm nay ông không hát. Ông cũng đã từng rất đau lòng khi nhiều người gọi bolero là “nhạc sến”, theo ông đây là dòng nhạc rất sang trọng, đẳng cấp. Dù xuất phát từ Tây Ban Nha nhưng khi du nhập sang Việt Nam, các nhạc sĩ đã xử lý và thổi hồn dân tộc vào các bài hát và làm nên dòng nhạc bolero rất đặc trưng Việt Nam.

Ông cũng lấy làm bất ngờ khi THVL và Truyền thông Khang thực hiện các chương trình bolero và ông rất hạnh phúc khi tham gia làm Giám khảo khách mời của chương trình năm nay.

Cũng như ca nhạc sĩ Thanh Phong, nữ danh ca Giao Linh cũng từng rơi vào cảm giác khó xử khi được một MC giới thiệu là “nữ hoàng nhạc sến”. Bà cho biết ngày xưa để hát một bài bolero, các ca sĩ phải tập luyện rất vất vả và phải thu đi thu lại nhiều lần mới được nhạc sĩ hài lòng. Bà cũng gửi lời cảm ơn Đài THVL cùng công ty Truyền thông Khang đã góp phần đưa dòng nhạc bolero trở lại mạnh mẽ. Trong chương trình Tình Bolero phiên bản nghệ sĩ, bà tham gia với vai trò Giám khảo khách mời.

NSƯT Vũ Thành Vinh 

Đại diện cho nhà sản xuất, NSƯT Vũ Thành Vinh cho biết Truyền thông Khang và Đài TH Vĩnh Long là đơn vị đi trước trong việc đưa dòng nhạc bolero lên truyền hình.  Và trong sứ mệnh vực dậy sức sống âm ỉ và không kém phần mãnh liệt của dòng nhạc này, Truyền thông Khang và Đài THVL cố gắng làm tốt nhất trong mỗi chương trình về bolero mà mình sản xuất. Với ông, Bolero là dòng nhạc xưa nhưng không cũ, cho nên kể cả khi thị trường âm nhạc bão hòa thì điều ông quan tâm nhất chính là làm thế nào để chương trình ngày càng hay và hấp dẫn khán giả hơn là nghĩ đến việc chạy theo một dòng nhạc khác.

Nói về dòng nhạc bolero, nữ danh ca Phương Dung (giám khảo xuyên suốt của Tình Bolero phiên bản nghệ sĩ 2017) không gọi đó là “những tình khúc bất tử” mà bà dùng từ “legend” (huyền thoại), bởi theo bà 2 từ huyền thoại xứng đáng dành cho dòng nhạc này.

Ca sĩ Đông Đào

Là người hướng dẫn thanh nhạc cho 8 nghệ sĩ tham gia, ca sĩ Đông Đào chia sẻ: Nhiều thí sinh quen hát nhạc trẻ nên khi tập hát bolero gặp rất nhiều khó khăn nhưng tất cả đều rất cố gắng, có nhiều nghệ sĩ có tố chất nên tiếp thu rất nhanh.

Diễn viên Thanh Trúc tại buổi họp báo

Nữ diễn viên Thanh Trúc cho biết qua chương trình Tình Bolero phiên bản nghệ sĩ 2017, khán giả sẽ thấy cá tính thật của cô khác với những vai diễn trên truyền hình. Đặc biệt, cô còn mượn lời ca tiếng hát để bày tỏ những nỗi niềm, tâm sự. Trong buổi họp báo, nam diễn viên Huỳnh Đông đã trêu chọc Thanh Trúc là người hát bolero dở nhất, hát truyền cảm nhất là Thanh Thức, còn anh chỉ hát ở mức độ trung bình. Thanh Thức cho rằng, trước đây anh có đi hát nhưng để gọi là cố gắng, nỗ lực hết mình thật sự thì chưa. Chỉ đến khi đặt mình vào cuộc thi thì anh mới có nhiều áp lực, động lực cố gắng. Và anh tự nhận thấy qua mỗi vòng thi, với sự góp ý của các giám khảo, giọng hát của anh ngày càng tiến bộ hơn.

Nghệ sĩ Vũ Thanh và Lý Hương

 

Là nghệ sĩ lớn tuổi nhất trong chương trình, Vũ Thanh cho biết anh đã hủy 70% show diễn để tập trung cho chương trình, chỉ giữ lại 30% show để có thể lo kinh tế gia đình. Đến với Tình Bolero phiên bản nghệ sĩ 2017, anh muốn khán giả nhìn anh với vai trò ca sĩ chứ không phải một diễn viên. Trong buổi họp báo, anh thể hiện ca khúc Con đường xưa em đi để gửi tặng mọi người.

Với mong muốn mang đến một chương trình hấp dẫn, kịch tính và giúp cho các nghệ sĩ tiến bộ hơn trong giọng hát, các giám khảo Tình Bolero phiên bản nghệ sĩ 2017 sẽ có những góp ý thẳng thắn hơn so với năm trước. Người dẫn chương trình Trác Thúy Miêu cũng cho rằng chương trình năm nay với chị là một thách thức và chị đã có sự thay đổi trong cách dẫn để có thể đáp ứng yêu cầu của nhiều đối tượng khán giả truyền hình khác nhau dù có thể điều đó không hề dễ chịu đối với một người sống và làm việc bằng cảm xúc mạnh mẽ như chị.

Tình Bolero phiên bản nghệ sĩ  phát sóng tập đầu tiên vào lúc 21h tối 21/8 trên kênh THVL1 với chủ đề “Tôi bán đường tơ”. Đây là đêm ra mắt của 8 nghệ sĩ và không có chấm điểm. Năm nay, khán giả tại miền Bắc có thể xem được Tình Bolero phiên bản nghệ sĩ 2017 trên hệ thống cab Analog tại vị trí kênh số 8 (THVL1) của VTVCab.

Minh Anh   Photo: Thành Nhân  (Sandien24h )

Nghệ sĩ cải lương Thanh Sang qua đời

Vào lúc 0h25 rạng sáng ngày 21/4, NSƯT Thanh Sang đã trút hơi thở cuối cùng tại nhà riêng vì sức khoẻ suy yếu, hưởng thọ 74 tuổi.

Trước đó, vào ngày 4/4, nghệ sĩ cải lương Thanh Sang đã được đưa đi cấp cứu vì có triệu chứng khó thở do bị suy tim, phổi, thận và xuất huyết não.

Tuy nhiên, sau hơn 2 tuần nằm viện, dù các bác sĩ đã nỗ lực cứu chữa nhưng sức khoẻ của ông lại ngày càng suy yếu. Gia đình đã đưa nghệ sĩ về nhà vào ngày 20/4 để tiện việc chăm sóc. Sự ra đi của ông khiến nhiều đồng nghiệp và khán giả cảm thấy nuối tiếc.

Nghệ sĩ cải lương gạo cội Thanh Sang vừa qua đời vào sáng 21/4 vì bị suy tim, phổi, thận và xuất huyết não.

Được biết, NSƯT Thanh Sang tên thật là Nguyễn Văn Thu, sinh năm 1943 tại Hoà Hiệp, Phước Hải. Ông là một trong những nghệ sĩ cải lương gạo cội tại Việt Nam. Ông dấn thân vào nghề sân khấu từ những năm cuối thập niên 1950 và được khán giả nhớ đến bởi chất giọng trầm ấm. Thậm chí, NSƯT Thanh Sang và nghệ sĩ Thanh Nga từng được khán giả ghép cặp là đôi đào kép lý tưởng.

Một trong những vai diễn gắn liền tên tuổi của ông có thể kể đến như Quách Tĩnh (vở Anh hùng xạ điêu), Thi Sách (vở Tiếng trống Mê Linh), Tạ Tử Lăng (vở Cô gái khi rừng mới sang thu),… Tuy nhiên, vai diễn giúp ông đổi đời từ một anh chàng chài lưới, chưa qua trường lớp trở thành ngôi sao cải lương và nhận Huy chương vàng giải Thanh Tâm lại là vai Tạ Tốn (vở Cô gái Đồ Long).

Sự ra đi của cố nghệ sĩ khiến nhiều đồng nghiệp và khán giả cảm thấy tiếc nuối.

Đến năm 1985, ông thôi hát ở các đoàn văn nghệ, chỉ thu băng đĩa và hát phục vụ khi có yêu cầu. Năm 2001, ông lâm bệnh nặng và phải rời xa sân khấu một thời gian dài. Năm 2007, NSND Bạch Tuyết đã làm đạo diễn chương trình Làn điệu phương Nam, với chủ đề “50 năm một tình yêu nghệ thuật” để kỷ niệm 50 năm nghiệp hát cải lương của NSƯT Thanh Sang.

Theo Hương Bùi (Dân Việt)

Đào Bạch Linh – truyền nhân cuối cùng của nghệ nhân hát xẩm Hà Thị Cầu

Mỗi dịp cuối tuần, nắng cũng như mưa, cậu học trò lại lóc cóc bắt xe từ Hà Nội về Ninh Bình, để nghe cụ Hà Thị Cầu hát, ngắm nhìn và học những ngón nghề của cụ. Thấm thoát 7 năm trôi qua, khi “người hát xẩm cuối cùng của thế kỷ XX” đã về với tổ nghề, cậu học trò vẫn giữ cho mình tình yêu vẹn nguyên với xẩm. Bạn bè, đồng nghiệp thường gọi anh là Linh Xẩm – Chủ nhiệm CLB hát Xẩm Hải Thành.

Ông chủ trẻ của chiếu xẩm đất Cảng

Giữa những nhộn nhịp của thành phố Hải Phòng, khi những loại hình nghệ thuật dân gian đang dần bị lãng quên trong cuộc sống hiện tại, thì có một chiếu xẩm tuần nào cũng sáng đèn, tiếng hát và đàn nhị réo rắt. Ông chủ của chiếu xẩm đó là Đào Bạch Linh – mới ngoài ba mươi tuổi, nhân viên Sở Ngoại vụ Hải Phòng, một trong những nghệ nhân dân gian trẻ nhất của đất Cảng, một trong 4 nghệ nhân hát xẩm ít ỏi còn lại của Việt Nam.

xẩm đến với Bạch Linh tình cờ và ngẫu nhiên. Xuất thân trong gia đình không có ai hoạt động nghệ thuật, bằng sự nỗ lực và đam mê kỳ lạ với xẩm, những năm qua anh đã tích lũy và đem những kiến thức mình biết về loại hình nghệ thuật truyền thống này đến với hội viên yêu xẩm trên khắp mọi miền tổ quốc. Với những người từng đến CLB hát xẩm Hải Thành của nghệ nhân trẻ, không chỉ bị say bởi điệu hát khi mạnh mẽ, lúc sầu bi, ám ảnh của Bạch Linh mà còn được anh truyền những ngón nghề. Để khi đã đến là khó dứt và mê xẩm hơn.


Có điều, dù rất yêu, nhưng hiếm người trong số họ coi hát xẩm là một nghề để kiếm sống, kể cả với ông chủ của câu lạc bộ. “Bây giờ môi trường diễn xướng của hát xẩm vẫn còn, nhưng không còn thịnh hành nữa. Nên giờ mọi người chỉ nghĩ hát để vui, để chơi thôi. Nhưng với tôi, đó còn là trách nhiệm, để gìn giữ loại hình nghệ thuật truyền thống này. Tớ đi nhiều, thấy người ta còn thích nhiều lắm. Còn hát cho người ta nghe, là người ta còn thích” – dứt lời, Linh kéo nhị, cất giọng ca vài câu.Tính đến nay câu lạc bộ hát xẩm của Bạch Linh đã hoạt động được 6 năm, thành viên phần lớn là các bạn trẻ. Có những em nhỏ chỉ mới 8, 9 tuổi nhưng hát xẩm rất hay. Mỗi người một hoàn cảnh, nhưng đều chung tình yêu và đam mê với xẩm.

Truyền nhân của nghệ nhân Hà Thị Cầu

Ai đã có dịp nghe Đào Bạch Linh hát, sẽ nhận ngay ra cái chất của “thần xẩm” Hà Thị Cầu, từ cách nhấn nhá, nhả chữ. Chỉ khác là cả cuộc đời nghệ nhân Hà Thị Cầu lang thang kiếm sống bằng nghề hát xẩm, thì nay Linh không đi hát rong như vậy, nhưng mỗi khi có dịp được mời đi hát, anh ít khi chối từ.

Trước khi được biết tới, được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian, Bạch Linh đã có 7 năm theo học cụ Cầu, đến khi cụ qua đời. Anh và cụ có cái duyên kỳ lạ, cách anh đến với xẩm cũng lạ không kém.

Đào Bạch Linh là một trong 4 nghệ nhân hát xẩm ít ỏi còn lại của Việt Nam

Sau lần đó, anh bị mê, đi hỏi khắp nơi tìm mua đĩa xẩm nhưng không được. Sau mấy tháng tìm kiếm ở các cửa hàng bán băng đĩa, được một chủ cửa hàng mách lên Trung tâm Phát hành băng đĩa nhạc Hồ Gươm Audio, cậu sinh viên đạp xe hối hả lên tìm. “Cả cửa hàng khi đó còn 2 đĩa hát xẩm, mỗi đĩa có 6 bài của nghệ nhân Hà Thị Cầu (và 1 bài giới thiệu về hát xẩm), bán với giá 37.000 đồng. Tôi cầm đĩa lên rồi lại đặt xuống, vì khi đó cả tháng tiền ăn học của tôi vào khoảng 150.00 đồng. Và lúc đó trong túi chỉ có mười mấy nghìn thôi. Tôi đạp về, đi vay tiền bạn bè ở khu xóm trọ để mua, mà phải đi ngay trong ngày vì sợ người ta bán mất đĩa” – Bạch Linh nhớ lại.Đó là vào năm 2005, khi đang ôn thi học kỳ, vì thức khuya, bị quá giấc nên chàng sinh viên công nghệ thông tin bị mất ngủ. Anh mở Đài Tiếng nói Việt Nam lên và tình cờ nghe được bài hát rất lạ (bài Rể Lười, theo điệu xẩm trống quân), mà khi đó theo lời Linh là mình chưa biết hát xẩm là gì và cụ Hà Thị Cầu là ai, chỉ biết là tiếng hát, giọng ca trên đài FM đã khiến anh ấn tượng. Anh bắt đầu lên mạng tìm kiếm. Sáng hôm sau Linh lặn lội lên tận Trung tâm Phát triển âm nhạc Việt Nam để hỏi, thì mới biết đó là hát xẩm.

Và chỉ trong 1 tuần, Linh thuộc và hát không sai tất cả những ca khúc mà cụ Hà Thị Cầu hát trong đĩa. Vì quá say mê, thần tượng cụ, năm 2006, nắng cũng như mưa, gió rét, cứ ngày cuối tuần là Linh lại lóc cóc bắt xe về Ninh Bình, “cơm nắm” về nhà nghệ nhân Hà Thị Cầu để học hát xẩm. Linh được cụ nhận là học trò, coi như con cháu trong nhà. Cho đến năm 2010, khi về Hải Phòng làm việc và công tác, anh vẫn lui tới nhà cụ để học, có khi chỉ mua biếu cụ quả cau hay chai rượu. Với Linh, những năm tháng đó đã cho anh rất nhiều, để anh học được tính nhẫn nại, giản dị của cụ Hà Thị Cầu. Để biết được xẩm không chỉ là những câu hát mà còn là lời mời gọi day dứt, làm con người sống thiện tâm hơn.

* Bài “Công cha ngãi mẹ sinh thành” – hát theo điệu Thập ân phụ mẫu trong phần Lễ (hát thờ) của Lễ giỗ tổ nghề hát xẩm cổ truyền Việt Nam ở Hải Phòng do nghệ nhân dân gian Đào Bạch Linh biểu diễn:

Nghệ nhân cuối cùng hát xẩm tàu điện

Năm nay bước vào độ tuổi thất thập cổ lai hy, nhưng hằng ngày ông Gia vẫn kéo nhị, hát xẩm dạy cho thế hệ trẻ. Ông là nghệ nhân hát xẩm tàu điện cuối cùng ở Hà Nội.

Tôi đã đi tìm những người hát xẩm trên các chuyến tàu điện của Hà Nội năm xưa. Tìm mãi, hỏi mãi cuối cùng mới gặp được ông Nguyễn Văn Gia (thôn Phú Đô, xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, TP Hà Nội).

Duyên hát xẩm

Ông Gia là em út trong gia đình có 3 chị em. Ngày nhỏ ông có năng khiếu âm nhạc. Lớn lên ông vừa học phổ thông, vừa học âm nhạc. Với ước mơ sau này sẽ trở thành một nghệ sĩ cải lương, ông Gia theo học lớp cải lương trong trường điện ảnh. Nhưng rồi một trận ốm thập tử nhất sinh đã khiến cuộc đời ông rẽ sang hướng khác.

“Năm 17 tuổi, khi đó tôi vừa học lớp 10, vừa học năng khiếu về âm nhạc. Lúc đầu tôi bị ốm đọc sách mắt cứ mờ dần, nghĩ rằng chỉ bị đau mắt hột, mua thuốc nhỏ mắt sẽ sáng trở lại. Nhưng mắt tôi cứ mờ dần, mờ dần. Việc học hành khó khăn, tôi nói với bố mẹ là cho đi khám. Bác sĩ ở Bệnh viện Mắt T.Ư chẩn đoán mắt tôi bị viêm màng bồ đào. Đây là căn bệnh hiếm gặp, y học ngày đó không thể chữa được. Các bác sĩ bảo nếu muốn chữa phải sang nước ngoài. Gia đình tôi nghèo, chạy ăn từng bữa, lấy tiền đâu mà sang bên đó. Mọi người đành ngậm ngùi để tôi chìm vào bóng tối”, ông Gia buồn rầu kể lại.

Lúc đó ông tuyệt vọng hơn bao giờ hết và đã nghĩ đến cái chết để giải thoát. Song ông Gia tự dặn lòng mình phải sống để làm việc có ý nghĩa. Vốn có khiếu về âm nhạc, được học về hát cải lương nên ông đã nhanh chóng tìm được công việc phù hợp với mình.

“Vào một buổi chiều năm 1960, tôi đi ra bờ hồ Hoàn Kiếm chơi, thấy cụ “trùm xẩm” Nguyễn Văn Nguyên hát xẩm rất hay. Tôi ngồi mê mẩn nghe cụ hát đến tối mịt. Thấy tôi thích món hát xẩm, cụ Nguyên bảo hát thử một bài hát bất kỳ. Nghe xong thấy giọng hát của tôi ấm áp, cụ đã cho theo và học hát xẩm. Vừa học của cụ, tôi vừa sáng tác thêm những điệu mới cho phù hợp với chất giọng của mình. Và chỉ thời gian ngắn tôi đã có có thể đi hát riêng”, ông Gia cho biết.

Ở tuổi thất thập cổ lai hy, ông Gia vẫn say sưa với xẩm.

Mười năm hát xẩm tàu điện

Ông Gia tâm sự: “Ngày đó hát xẩm tàu điện chủ yếu cho công chức, công nhân, người buôn bán nghe. Tôi đi hát lang thang trên tàu điện, chợ ở Hà Nội hàng chục năm trời. Đi hát xẩm ngày đó chỉ hơn ăn xin một chút là mình bỏ sức lực ra hát, người nghe thấy hay thì cho vài hào. Đi hát cả buổi có hôm chỉ được bát phở. Ai cho thì lấy, chúng tôi không chìa tay xin tiền như ăn xin. Tuy nhiên, cũng bị khinh ghét, coi thường”.

Ông Gia cho hay, được một thời gian thì số lượng người đi hát xẩm rong ở Hà Nội lên tới hàng trăm. Chính quyền cấm tụ tập đông người. Vì thế, việc kiếm sống trở nên khó khăn. Ông lại chuyển đi hát ở các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Lào Cai.

“Hát ở tỉnh lẻ vừa dễ kiếm sống, vừa không bị đuổi. Thời đó tiền có mệnh giá cao nhất là 10 đồng, đi hát kiếm được 1 đồng là quý lắm. Mỗi chuyến đi như vậy cũng phải mất tuần lễ, số tiền kiếm được khoảng 10 đồng. Tôi về mua gạo cho cả nhà ăn chỉ được một tuần”, ông Gia cho biết.

Vợ chồng ông Gia hạnh phúc bên nhau.

“Có tiền không mà vào đây”

Có lần ông Gia lên tàu vào tận trong TP Vinh, tỉnh Nghệ An để hát xẩm. Đi hát nhiều tỉnh, nhưng ông chưa thấy nơi đâu quý người hát xẩm như trong đó. Ông Gia kể: “Lúc đầu thấy tôi hát ở bến tàu, bến xe có người cho rằng đó là đài hát chứ không phải tôi hát. Sau đó nhiều người tập trung xung quanh, họ yêu cầu tôi hát một điệu xẩm nói về chiến tranh. Thấy giọng hát của tôi ấm ấp, ngọt ngào có người ghi âm lại cho người thân nghe. Hôm đó tôi được mọi người thưởng cho số tiền kha khá”.

Tuy nhiên, điều ông Gia buồn nhất trong thời gian đi hát rong là mỗi khi đi vào hàng ăn, quán trọ bị người ta khinh ghét. “Tôi đi hát nhiều nơi, điều tôi thấy buồn nhất là người ta luôn có sự kỳ thị đối với người khiếm thị. Khi chúng tôi vào quán ăn uống, nghỉ ngơi chủ quán hỏi ngay là có tiền không, khi nhìn thấy tiền mới niềm nở. Có lần tôi quên không mang theo giấy tờ, người ta xua đuổi không cho vào ngủ. Đêm đó tôi phải ngủ ngoài trời. Suốt bao nhiêu năm đi hát, tôi chưa xin của ai bất cứ cái gì. Nhưng người ta cư xử thật bất công với chúng tôi”, ông Gia tâm sự.

Đó cũng chỉ là một chút kỷ niệm buồn lắng đọng trong lòng ông Gia. Ông Gia bảo, cuộc đời đi hát xẩm có nhiều cái vui hơn là buồn. Nhiều tỉnh lẻ rất thích nghe hát xẩm. Có người mê hát xẩm bỏ công việc cả ngày đi theo giúp đỡ, ông cần gì thì giúp nấy, thậm chí lúc về còn biếu tiền cho ông.

Ông Gia nói rằng, cuộc đời ông có biêu bao nhiêu vui buồn ông đều đưa vào những điệu xẩm. Xẩm mang lại cho ông niềm tin yêu cuộc sống và cả những hạnh phúc lớn lao. Tôi bất ngờ khi ông nói rằng, người phụ nữ ngồi bên cạnh là vợ ông. Ông bảo đó cũng nhờ hát xẩm mà có.

“Năm 1980 những lúc không đi tỉnh xa hát, tôi hay ngồi hát ở chợ Ngọc Hà, Hà Nội. Còn cô ấy (người vợ bây giờ) buôn bán hàng xáo. Tôi hay hát gần bên gian hàng của cô ấy, qua những lần nói chuyện dần dần cô ấy hiểu được hoàn cảnh của tôi. Chúng tôi đến với nhau như một lẽ tự nhiên. Khi gia đình cô ấy biết chúng tôi yêu nhau đã phản đối rất quyết liệt, tìm mọi cách chia lìa hai đứa. Nhưng sức mạnh của tình yêu đã tạo động lực để cho chúng tôi đến với nhau”, ông Gia kể.
Hạnh phúc của vợ chồng ông Gia thật ngọt ngào, 2 người con của gia đình đều khỏe mạnh, học giỏi. Gia đình ông nghèo, nhưng ông vẫn quyết tâm cho các con ăn học đến nơi đến chốn. Ông Gia tâm sự: “Cuộc đời tôi đã trải qua quá nhiều những bất hạnh, nhưng cuối đời tôi được quây quần bên vợ con thế này là vui lắm rồi”.

“Ông Gia được vinh danh là nghệ nhân hát xẩm của Hà Nội, kỷ niệm chương vì hạnh phúc người mù. Ông Gia là pho sử sống về hát xẩm tàu điện trước đây ở Hà Nội. Ông đã sáng tạo ra nhiều điệu xẩm hay, đặc sắc. Hiện nay chúng tôi vẫn mời ông Gia đến dạy cho các sinh viên theo học bộ môn hát xẩm.

Nhạc sĩ Thao Giang (Phó Giám đốc Trung tâm Văn hóa Âm nhạc Nghệ thuật Việt Nam)

NSƯT Thoại Mỹ: ‘Phải chết trên sân khấu tôi cũng thấy vui’

Đằng sau ánh đèn sân khấu là một Thoại Mỹ vẫn một mình lặng lẽ đi về giữa cuộc đời. Chính chị thừa nhận số kiếp của mình là hi sinh cho gia đình, con người sống nay chết mai nên không cần bon chen tiền tài hay danh vọng.

Tôi không bao giờ ganh đua với Ngọc Huyền

* Lần đầu tiên ngồi vị trí huấn luyện viên một gameshow truyền hình về cải lương, cảm xúc cùa chị thế nào?

– Cũng thấy hay hay vui vui vì nó đúng chuyên môn của mình rồi. Trước đây cũng có mấy gameshow mời mà tôi không có thời gian, mình cũng đi suốt, một phần là chưa cảm thấy “đã” lắm. Chương trình Đường đến danh ca vọng cổ nếu nói về tâm linh thì đúng là chữ duyên. Chương trình mời là tôi đang ở Mỹ, định là tới Tết mới về, show cũng nhận luôn hết rồi. Nhưng khi nhận được lời mời từ ban tổ chức, tôi cũng lấn cấn, show nhận rồi làm sao đây? Suy nghĩ lại thì đây là chương trình về vọng cổ đúng chuyên môn luôn, cũng là dịp để cải lương tỏa sáng. Mấy nay người ta coi cải lương chết rồi, tôi nói với mình là phải về, không thể bỏ cơ hội này. Trước giờ cải lương đâu có ai làm game đâu, thấy format hay nữa nên tôi quyết định điều đình hết tất cả các show.

Ngồi ghế nóng cũng vinh dự nhưng rất áp lực. Chương trình này không phải dành cho người làm nghề, mà cho bất cứ người nào yêu thích cải lương, thích giọng cổ đều đến được. Có những bác tài xế, anh chị bán bún riêu, làm ruộng, chăn dê, giữ miễu… cũng tham gia và mình phải chọn hay không chọn trước những niềm đam mê ấy khiến không chỉ Mỹ mà các huấn luyện viên còn lại đều canh cánh.

* Được biết ban đầu chương trình từng dự định phát sóng trên HTV nhưng vì lý do nào đó mà chuyển phát sóng trên một kênh truyền hình cáp, chị có tâm tư điều gì không?

– Buồn thì có buồn chút xíu vì chiếu trên kênh HTV sẽ được nhiều người xem hơn, dễ đến với vùng sâu vùng xa nhiều hơn. Giờ chương trình của mình bị hạn chế, phải có cáp để coi được mình có hơi buồn. Thật ra thì khán giả cũng không bỏ, người ta vẫn vào YouTube xem hoặc xem livestream trên Fanpage, và đã cổ vũ chương trình rất nhiều. Nghe nói lượt người xem cao lắm, có mấy ngày đã được triệu view, chứng tỏ chương trình nhận được nhiều sự quan tâm.

Thoại Mỹ lấy chồng vào năm 21 tuổi, với một đám cưới được cho hoành tráng bậc nhất giới nghệ sĩ chỉ sau của nghệ sĩ Thẩm Thúy Hằng. Đến năm 28 tuổi chị gặp đổ vỡ và tập trung vào sự nghiệp cho đến nay
Thoại Mỹ lấy chồng vào năm 21 tuổi, với một đám cưới được cho hoành tráng bậc nhất giới nghệ sĩ chỉ sau của nghệ sĩ Thẩm Thúy Hằng. Đến năm 28 tuổi chị gặp đổ vỡ và tập trung vào sự nghiệp cho đến nay

* Lâu lắm mới có dịp cộng tác với nghệ sĩ Ngọc Huyền trên quê hương, cảm xúc của chị thế nào?

– Tôi với Huyền cũng hay đi show khi ra nước ngoài. Cùng với anh Long chúng tôi thường kết hợp diễn chung ở các nước châu  và Mỹ. Cộng tác ở Việt Nam cũng không khác nhiều lắm, vì chúng tôi là những người biết nhau từ tấm bé, cùng học chữ A chữ B với thầy Út Trong, rồi ra trường làm chung tới bây giờ. Nhiều năm gắn bó chúng tôi hiểu nhau nhiều, khi nghe ngồi ghế nóng chung thì thấy khấn khởi, bởi hiểu và hợp nhau nên dễ tung hứng.

* Chị có phải cạnh tranh với nghệ sĩ Ngọc Huyền không?

– À bạn bè thì bạn bè nhưng khi vô cuộc thi hay cuộc chơi mỗi người đều có chiến lược riêng. Vào đây rồi thì mình phải dùng chất xám, lý trí để đào tạo thí sinh được tỏa sáng, thật hay trên sân khấu. Nhưng làm gì thì đều trên tinh thần không có cái gì chia cắt được tình bạn này. Tôi không bao giờ ganh đua với Ngọc Huyền, chúng tôi đều biết tất cả mình làm vì nghề, không vì giải thưởng gì mà chúng tôi chơi nhau, phá nhau hay mích lòng nhau. Điều này tuyệt đối chúng tôi không thể có.

Thoại Mỹ nói về "tình cũ" - nghệ sĩ Kim Tử Long: "Chúng tôi như anh em trong nhà"
Thoại Mỹ nói về “tình cũ” – nghệ sĩ Kim Tử Long: “Chúng tôi như anh em trong nhà”

* Chị thấy lớp trẻ ngày nay có khác gì ngày xưa không?

– Khi chưa có cuộc thi này tôi biết nhiều bạn trẻ thích cải lương rồi nhưng tôi không ngờ các bạn còn tự học và hát hay vậy. Đi vào cuộc chơi thì cả tôi, anh Kim Tử Long và Ngọc Huyền ngỡ ngàng luôn, nghe có giọng ca hay hỏi ra thì chưa đi học trường lớp, chỉ nghe và ca theo. Rõ ràng các bạn phải có niềm đam mê rất lớn bên trong. Đội của tôi có người là đầu bếp, có người giữ miễu chùa, có cả bác sĩ, họ thường xả stress bằng câu ca tiếng hát, dần dần hát hay lúc nào không biết.

Có chết tại sân khấu trả ơn Tổ nghiệp tôi cũng không tiếc nuối

* Chị có bao giờ lo cải lương của mình có lúc sẽ không còn đất sống?

– Không. Ngày xưa tôi cũng có lo, có lẽ do xã hội hiện đại quá, nhiều cái này cái nọ cho họ xem, rồi sân khấu lại không còn cho cải lương hoạt động. Nhưng bây giờ tôi không nghĩ vậy nữa.

Tôi qua bên Mỹ hát ở casino, nơi đó có nhiều ca sĩ hát nhạc trẻ. Mình đôi khi chỉ hát một bài tân cổ giao duyên nhưng khán giả vỗ tay rần rần, chưa cần đến chỗ cao trào, chỉ cần chỗ mình nhấn nhá hay họ cũng đã vỗ tay khen ngợi. Cải lương đã được cổ vũ rất nồng nhiệt đấy. Tôi đi nhiều mới thấy cải lương đâu có chết đâu, họ rất là thương cải lương. Mặc dù ít hoạt động, nhiều bài có trên YouTube người ta vẫn đến coi mình. Khi hát ở chùa thường là chương trình tổng hợp, nhạc có, rồi hài, rồi cải lương. Có mấy bác tới ngồi trong xe chờ, đến tiết mục cải lương mới đi vô. Mình thấy vậy mình rất hãnh diện, như là tiết mục đinh trong chương trình. Mình cảm thấy cải lương không chết. Không chỉ người già, những người trẻ người ta thuộc những bài xưa, từ tên tựa đến lời hát. Người làm nghề thấy vậy rất vui. Tôi rất xúc động khi khán giả còn quan tâm đến cải lương và nghệ sĩ làm nghề. Tôi nghĩ nghệ sĩ thấy vậy phải tâm huyết với nghề, và không nghệ sĩ nào cho phép mình đùa giỡn, hời hợt với cái nghề của mình.

Thoại Mỹ chia sẻ với một thí sinh chương trình Đường đến danh ca vọng cổ.
Thoại Mỹ chia sẻ với một thí sinh chương trình Đường đến danh ca vọng cổ.

* Nguồn sống của nghệ sĩ cải lương tại Mỹ có không bằng ca sĩ không, thưa chị?

– Ở Mỹ nghệ sĩ ở rải rác từng tiểu bang, muốn tập hợp là phải bay qua bay lại, đi 5-6 tiếng mới đến chỗ hợp tác chứ không phải như ở Việt Nam cần là gặp được liền. Hát nhạc thì dễ, ở nhà dợt bài rồi vô ráp ban nhạc, còn cải lương cần sự tương tác với bạn diễn, dàn nhạc phải có dàn cổ dàn tân. Còn thiết kế sân khấu nữa, phải có bàn ghế, đạo cụ chúng tôi mới diễn được. Tổ chức một đêm cải lương khó chứ không dễ, nhưng được cái là khán giả dành cho cải lương nhiều tình cảm, họ luôn đến rất đông, ủng hộ rất nhiệt thành.

Về thu nhập thì mỗi người có hoàn cảnh sống khác nhau. Nhiều khi đồng lương của người ta vậy mà người ta thấy đủ. Mà đủ thì bao nhiêu cho đủ? Con người mình tham lắm, có cái này là nghĩ cái kia. Quan trọng là biết mình ở đâu, biết khéo sắp xếp thì sống được.

* Mấy chục năm trời làm nghề, có giây phút nào chị thấy… chán?

– Chưa bao giờ tôi giảm đam mê, nản chí hay chán. Khi tôi bị tai nạn nghề nghiệp (té trên sân khấu trong vở Xử án Bàng Quý Phi năm 2003 – PV), vừa đỡ là lao vào tập luyện, quên hết mọi đau đớn vừa trải qua. Nhiều khi mình diễn hăng đến nỗi chấp nhận sau khi diễn xong lên bàn mổ tiếp cũng được. Phải chết trên sân khấu tôi cũng thấy vui.

Tôi biết nhiều anh chị em nghệ sĩ lửa nghề luôn trào dâng từ đâu không biết, hễ lên sân khấu là không kềm được, diễn như đêm cuối cùng. Tổ nghiệp cho mình cái nghề này, nuôi sống mình và gia đình mình thì có chết tại sân khấu trả ơn Tổ nghiệp tôi cũng không tiếc nuối. Nhiều người hỏi hết thời tôi có định chuyển nghề, tôi nói là không, làm thêm thì làm chứ nghề này tôi không bỏ được.

* Chị đam mê nghề như vậy đó có phải là nguyên nhân chị không để tâm nhiều đến việc mình vẫn lẻ bóng?

– Bất cứ nghệ sĩ nào cũng vậy, yêu nghề thì yêu nghề chứ họ cũng có cuộc sống riêng của mình, chứ không phải nghề mình là tất cả. Nhưng mà duyên phận mỗi người mỗi khác nhau. Ai cũng muốn có bờ vai vững chắc đề mình nương tựa nhưng mọi người đều có duyên phận, có nghiệp duyên khác nhau. Mình muốn đâu có được mà không muốn cũng đâu có được.

Với Ngọc Huyền, Thoại Mỹ cho biết dù ngồi ghế nóng cạnh tranh nhưng không có gì chia cắt được tình bạn này.
Với Ngọc Huyền, Thoại Mỹ cho biết dù ngồi ghế nóng cạnh tranh nhưng không có gì chia cắt được tình bạn này.

Các bạn trẻ 13-14 tuổi bây giờ nhiều kinh nghiệm yêu hơn tôi

* Nhiều khán giả cho rằng ngày xưa chị từng có chuyện tình dang dở với nghệ sĩ Kim Tử Long, nay hợp tác chung có lo “lửa gần rơm, tình cũ không rủ cũng tới”?

– Cuộc tình này thời đó là tình yêu học sinh, mới mười mấy tuổi thôi. Cái đó đủ sức yêu dữ dội chưa? Chúng tôi có cơ hội hằng ngày sinh hoạt với nhau, ở bán trú, hát chung với nhau nên nảy sinh ra tình yêu. Nói chung cũng có nhiều kỷ niệm, nhiều cái dễ thương. Nhưng mười mấy tuổi thời của tôi và anh Long, trời ơi, không biết cái gì đâu, thật là non nớt, hồn nhiên. Các bạn trẻ 13-14 tuổi bây giờ nhiều kinh nghiệm yêu hơn tôi. Đã ra trường rồi đó, đủ 18 tuổi nhưng tìm cảm trong trắng, ngây thơ.

Từ tình yêu giờ làm bạn thân thì chúng tôi xem như tình bạn này… thân hơn một chút. Chúng tôi xem nhau như

người thân. Mình không duyên với nhau thì có nợ với nhau, làm anh em cũng được. Đám cưới tôi hồi đó anh Long cũng đi bưng quả, phụ góp tay lo cho tôi. Rồi đám cưới ảnh tôi cũng lo lại. Tôi nghĩ vì chúng tôi yêu nhau trong sáng, nhẹ nhàng nên khi tan vỡ không có gì hận thù nhau.

* Trên ghế giám khảo chị thường dành sự tình cảm cho những người có hoàn cảnh khó khăn. Phải chăng chị tìm thấy mình của ngày xưa?

– Đúng. Tôi còn nhớ giai đoạn đó tôi khổ, khổ lắm luôn. Mẹ mất sớm, ba thì nuôi mười mấy đứa con. Thời gian đi học tôi đi bộ không, chưa bao giờ biết cái xe là gì. Sáng đi bộ đi học, trưa đi bộ về ăn miếng cơm. Chiều vô trường rồi tối đi học bổ túc tiếp. Cứ cuốc bộ mãi thôi. Thậm chí mình ra trường đi hát cũng không có xe vì nhà nghèo lắm. Hôm nào ba rảnh thì ba chở cho đi, không thì nhờ khán giả chở về, đồng nghiệp chở về. Có những hôm đi chung xe với ca đoàn, thả mình ở đó cũng thui thủi đi bộ về.

Ngày xưa rạp diễn thường là 7 giờ rưỡi, 8 giờ tối mở màn thì từ 3 giờ trưa mình đã cuốc bộ xách cơm đi vì mình đi bộ mà. Đi hát vòng vòng ở rạp, tuần này rạp này, tuần kia rạp khác, cứ thế lội bộ đi thôi. Đi học ở trường nói chung hoàn cảnh cũng khổ.

Ngoài những giờ đi hát, ngày nghỉ ở trường thì mình làm bất cứ việc gì để giúp gia đình. Thời đó là thời bao cấp, mỗi tháng học sinh được mười mấy ký gạo. Tôi tính kỹ lắm, nếu mình ở nội trú ăn trong trường thì không có cơm gạo mang về. Nếu mình đi về nhà thì gia đình sẽ được số gạo đó, cộng với nửa cân thịt một tháng không bị cắt đi. Thôi mình chấp nhận đi bộ về để nhà có gạo ăn chung. Nửa ký thịt hồi đó quý giá vô cùng, khổ dễ sợ chứ không đơn giản.

Rồi tôi xin ngồi nướng bắp dạo, bưng hủ tiếu, không mong có tiền mà chỉ mong có tô hủ tiếu để ăn. Tuổi thơ bất hạnh đã dạy tôi phải vươn lên bằng sức lao động.

Khi đi hát rồi nỗi khổ vẫn còn đeo đẳng. Kiếm tiền được thì gia đình mình còn khổ. May mắn cho tôi có mẹ nuôi làm ở Nhà hát Trần Hữu Trang, để tối đoàn có chở về thì nghỉ tạm ở đó chứ không lội bộ về xa xôi. Mẹ cũng cưu mang mình, cho bữa cơm để mình có lương mang về lo cho nhà. Có lẽ mình từng khổ vậy nên giờ nhìn ai khổ mình xúc động lắm.

* Khi cuộc sống dư dả chị có bù đắp cho khoảng thời gian trước không?

– Cho đến bây giờ với tôi gia đình vẫn là trên hết. Tôi chẳng hưởng thụ gì cho mình. Dĩ nhiên mình phải mua quần áo để diễn, chăm sóc da, gội cái đầu cho thư giãn thoải mái để rạng rỡ gặp khán giả, mình làm cho nghề mình. Chứ tôi nói chung nặng gánh gia đình, hi sinh cho nhà hết.

Hiện tại tôi không có gia đình riêng, với tôi nghĩ mình sống nay chết mai có mang được gì đi theo nên có gì mình cứ chia sẻ, chịu thiệt thòi một chút cũng được, không sao hết. Ngoài hi sinh cho gia đình, tôi thấm thía nỗi truân chuyên hồi nhỏ nên thương cho những hoàn cảnh giống mình ngày xưa. Nhớ mãi hồi đó người ta ăn dư một miếng, bảo mình: “Mỹ ơi, bưng cái này về ăn đi” là mình mừng muốn chết rồi, thì bây giờ mình nghĩ người ta cũng vậy. Người ta khó thì mình phải giúp, mà chia sẻ thế nào để không chạm nỗi đau của người ta. Mình từng tủi nhục, nuốt nước mắt ngược, cam khổ thế nào thì phải hiểu người ta. Ngày xưa đâu có các chương trình chia sẻ cộng đồng như bây giờ, người khổ không có nhiều thông tin, nên bây giờ việc giúp đỡ đã dễ dàng hơn. Tôi luôn lấy mình làm cột mốc để giúp đỡ những người khác.

* Nếu được chọn lại chị có chọn đi theo con đường làm nghệ sĩ cải lương không?

– Tôi luôn vái Tổ nếu có kiếp sau vẫn cho con làm nghề và được đi hát. Ngày xưa khi tôi đóng vai ác, có những vai người ta ghét kinh khủng, ra đường là tôi bị chửi kiểu như “nhỏ này nè, ác lắm, coi mà tui muốn đánh nó dễ sợ”, tôi nghe cũng buồn lắm. Nếu để ý sau này tôi đóng vai ác phải là dạng vai có hoàn cảnh đưa đẩy chứ không phải bản chất con người mình là thế.

* Xin hỏi chị, thời hoàng kim nhất cát-sê của chị được bao nhiêu?

– Mấy cây vàng một đêm, tôi đã có mức đó. (cười)

* Xin cám ơn NSƯT Thoại Mỹ!

Mai Ngọc (thực hiện)
Ảnh: BTC Đường đến danh ca vọng cổ cung cấp

Cuộc sống thực sự ở Mỹ của NSƯT Ngọc Huyền

Bên cạnh những giây phút trên sân khấu, Ngọc Huyền có cuộc sống thường ngày rất vui vẻ và hạnh phúc bên gia đình.


20161114101438-1411ngochuyen01
NSƯT Ngọc Huyền ăn mặc giản dị khi chụp ảnh gần ngôi nhà của mình tại bang California, Mỹ.
20161114101438-1411ngochuyen02
Hình ảnh hai mẹ con Ngọc Huyền vui vẻ và hạnh phúc.

20161114101438-1411ngochuyen03
Nữ nghệ sĩ mặc phục đơn giản nhưng lịch sự, trẻ trung để đi thăm chùa Ấn độ ở Atlanta.

20161114101438-1411ngochuyen04
Dù sống ở Mỹ nhưng Ngọc Huyền vẫn rất hay đi chùa vì cô theo đạo Phật.

20161114101438-1411ngochuyen05


Năm nay đã 46 tuổi nhưng nhan sắc của Ngọc Huyền vẫn mặn mà và đằm thắm.

20161114101438-1411ngochuyen06
Ngọc Huyền tại một nhà hàng ở Mỹ.

20161114101438-1411ngochuyen07
Rất nhiều khán giả đều đồng tình rằng dù đã chục năm trôi qua nhưng vẻ đẹp của NSƯT Ngọc Huyền thì vẫn như vậy.

20161114101438-1411ngochuyen08
Ngọc Huyền trong chuyến ghé thăm đại lộ danh vọng Hollywood. Cô cười tươi bên cạnh ngôi sao của diva nổi tiếng thế giới Celine Dion.

20161114101438-1411ngochuyen09
Ngọc Huyền chơi đùa với cún cưng.

20161114101438-1411ngochuyen10
Cô mặc trang phục áo dài cách tân trong một lần đi chơi ở Mỹ.

20161114101438-1411ngochuyen11
Bên cạnh áo dài, áo ba bà cũng được cô lựa chọn.

20161114101438-1411ngochuyen12
Tại Mỹ, Ngọc Huyền vẫn ăn đồ chay. Chị chia sẻ với fan rằng ăn đồ chay nên không lo bị mập.

20161114101438-1411ngochuyen13
Nữ nghệ sĩ chụp ảnh lưu niệm trong một lần ghé thăm Canada.

20161114101438-1411ngochuyen14
Gia đình nhỏ hạnh phúc của Ngọc Huyền, cô hiện tại đã có hai con (một trai và một gái).

20161114101438-1411ngochuyen15
Mỗi năm Ngọc Huyền đều về Việt Nam để làm từ thiện và thăm bạn bè.

Lục Hoàng