Cải lương qua 1 thế kỷ: Thời hoàng kim và thế hệ vàng

Cải lương có lẽ phát triển rực rỡ nhất vào khoảng giữa thập niên 1950 đến giữa thập niên 1970. Giai đoạn này xuất hiện một thế hệ nghệ sĩ tuyệt vời mà sau này mọi người thường gọi là ‘thế hệ vàng’, nay vẫn khắc sâu trong lòng khán giả.

Nghệ sĩ Chí Tâm và NSƯT Thanh Kim Huệ trong vở Lan và Điệp

Những ông vua không ngai
Trước đó, cải lương đã có một thế hệ nghệ sĩ quá giỏi, nhưng đến thập niên 50 – 60 – 70 thế kỷ trước thì “thế hệ vàng” được ghi nhớ nhiều nhất. Có thể điểm qua những cái tên vô cùng quen thuộc như: Út Trà Ôn, Hữu Phước, Út Bạch Lan, Thành Được, Thanh Nga, Tấn Tài, Phượng Liên, Hùng Cường, Bạch Tuyết, Dũng Thanh Lâm, Thanh Sang, Thanh Hải, Thanh Kim Huệ, Thanh Tuấn, Lệ Thủy, Chí Tâm, Mỹ Châu, Minh Phụng, Minh Vương, Minh Cảnh, Ngọc Giàu, Thanh Thanh Hoa, Diệu Hiền, Ngọc Hương, Ngọc Bích, Thanh Nguyệt, Hồng Nga, Bạch Lê, Văn Hường…
Mỗi nghệ sĩ có một chất giọng đặc sắc không trộn lẫn với ai, họ đã làm nên những câu vọng cổ và tuồng cải lương để đời. Ai không có giọng ca mùi như Diệp Lang, Nam Hùng, Hùng Minh, Hoàng Giang, Bảo Quốc, Kim Ngọc, Kiều Mai Lý, Văn Chung, Trường Xuân chẳng hạn, thì lại có khả năng đóng độc lẳng hoặc đóng hề cực kỳ giỏi, với giọng thoại nhấn nhá rất điêu luyện, làm nên những nhân vật trong các tuồng cải lương hấp dẫn.
Thời ấy, báo chí và khán giả đã phong cho nhiều nghệ sĩ những danh hiệu rất hay, nên có nhiều “ông vua không ngai” xuất hiện. Út Trà Ôn với chất giọng chân phương đúng chất người Nam bộ, được gọi là “Vua vọng cổ” vì ông ca nhiều bài đến mức kỷ lục. Út Bạch Lan thì tha thiết, u buồn, nên người ta gọi bà là “Sầu nữ”. Thanh Hải ngâm thơ theo giọng Tao đàn cực kỳ quyến rũ nên được phong “Vua Tao đàn”. Thanh Nga là “Nữ hoàng cải lương” vì bà sang trọng, lộng lẫy, tài sắc vẹn toàn. Tấn Tài là “Hoàng đế đĩa nhựa”. Bạch Tuyết là “Cải lương chi bảo” vì bà diễn quá điêu luyện. Minh Phụng được mệnh danh “Hoàng tử cải lương” vì đẹp trai, lên sân khấu khiến mê mẩn người xem…
Rồi thì lối ca diễn đặc biệt của “thế hệ vàng” cũng đã khắc sâu vào lịch sử cải lương. Minh Vương giọng cao vút, réo rắt ngọt ngào, đoạt Khôi nguyên Vọng cổ. Lệ Thủy trong veo như hồn nhiên cùng cuộc đời. Thanh Kim Huệ luyến láy bất ngờ, giọng ca trẻ mãi không già. Thanh Sang trầm ấm, chững chạc. Thanh Tuấn điêu luyện trong nhả chữ, bay lượn. Ngọc Hương buồn da diết, nhói lòng. Mỹ Châu giọng trầm không ai qua nổi, và có cách xuống câu vọng cổ lạ vô cùng. Ngọc Giàu ca như nhung căng lụa trải…
Những người “đo ni đóng giày” cho nghệ sĩ
Vọng cổ và cải lương giai đoạn này đi song song, xuất hiện rất nhiều bài hay và tuồng hay. Một thế hệ soạn giả vàng cũng ra đời, có biệt tài “đo ni đóng giày” cho nghệ sĩ. Đầu tiên là soạn giả Viễn Châu. Ông đã viết hơn 2.000 bài vọng cổ và hơn 50 vở cải lương, giúp nghệ sĩ thăng hoa. Út Trà Ôn với Tình anh bán chiếu bất hủ. Minh Cảnh với Võ Đông Sơ. Ngọc Giàu với Đêm tàn Bến Ngự… Dấu ấn rất lớn của Viễn Châu là ông đã sáng tạo ra thể loại tân cổ giao duyên, đưa vọng cổ lên một bậc phát triển mạnh mẽ. Nhiều bài tân cổ giao duyên của các tác giả khác cũng đã chiếm lĩnh thị trường như Câu chuyện đầu năm (Minh Vương – Thanh Kim Huệ ca), Thương về miền Trung (Thanh Tuấn ca), Nỗi buồn hoa phượng (Minh Phụng – Hương Lan ca), Trương Chi Mỵ Nương (Mỹ Châu – Thanh Tuấn ca)…

Nguồn: Theo báo Thanh niên

‘Khảy nhịp tang tình’ – show văn hóa về diễn xướng Nam bộ

Chương trình có các tiết mục hát xướng và bình phim tài liệu của nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng.

Khảy nhịp tang tình là đêm mở đầu của Diễn xướng Nam bộ – chuỗi chương trình biểu diễn nghệ thuật, khảo luận văn hóa, có nội dung giới thiệu các hình thức diễn xướng dân gian đã và đang tồn tại ở miền Nam.

Ngoài các đoạn hát xướng, hò, Khảy nhịp tang tình còn có phần bình phim tài liệu Gia Định – Sài Gòn: Điệu hát, câu hò ngày ấy của diễn giả, nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng. Diễn giả sẽ khái quát về sự hình thành và phát triển của Nam Bộ cùng tổng quan văn hóa Nam Bộ, các loại hình diễn xướng cơ bản: trữ tình dân ca, tự sự dân gian, múa lốt… Chương trình diễn ra tại Soul Live Project (TP HCM) tối 8/4.

 

Sinh năm 1952 tại Quảng Ngãi, nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng là tác giả và đồng tác giả của hơn 70 công trình nghiên cứu, đầu sách. Chiếm phần quan trọng trong số này là các sách về văn hóa, mỹ thuật và tâm linh, tín ngưỡng của vùng đất Nam bộ.”Mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn với sự phát triển kinh tế và xã hội khác nhau sẽ tạo nên những trào lưu văn hóa khác nhau do cộng đồng sống trong thời cuộc đó lựa chọn”, nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng nói. Theo ông, nhiệm vụ của Diễn xướng Nam Bộ là giới thiệu những nét văn hóa người Việt xưa từng yêu thích và giải thích những nét đặc trưng của các trào lưu ấy để bạn trẻ hiểu thêm văn hóa dân tộc. “Chúng ta chỉ bày thêm nhiều món ăn văn hoá có hương vị khác nhau và để quyền lựa chọn thưởng thức cho khán giả”, ông Huỳnh Ngọc Trảng chia sẻ.

Nguồn: Theo Vnexpress.

Cải lương qua 1 thế kỷ: Những vở ấn tượng sau 1975

Sau năm 1975, cải lương có đôi chút thay đổi, nhưng rồi lại hoạt động sôi nổi. Nhiều vở hay, vai diễn để đời, nhiều nghệ sĩ tiếp tục bật sáng.

 

Phương Quang và Thanh Vy trong vở Nàng Xê Đa

Phối hợp các thành phần nghệ sĩ
Giai đoạn sau giải phóng, mô hình cải lương tư nhân không còn nữa, mà các đoàn phải hoạt động theo mô hình tập thể. Bà bầu không còn một mình quản lý đoàn như trước, mà ban lãnh đạo có thêm một vài cán bộ từ Sở Văn hóa – Thông tin đưa xuống. Cách quản lý, cách trả lương, trả cát sê, ký hợp đồng tất nhiên cũng khác. Bên cạnh đó là đoàn nhà nước ra đời, gồm Nhà hát Trần Hữu Trang và đoàn Văn công TP.HCM. Đến năm 1984, có thêm đoàn 284 được thành lập sau chuyến đi biểu diễn ở châu Âu thành công rực rỡ.
NSND Lệ Thủy kể: “Hồi mới giải phóng nghệ sĩ chúng tôi lo lắm. Lo vì sợ mình bị ra rìa, không cho hát. Các đoàn tạm ngưng, nghệ sĩ đóng cửa ngồi nhà mà rầu, không biết mai mốt mình làm gì ăn, vì chỉ biết mỗi nghề hát thôi. Nghe nghe ngóng ngóng rồi tự nhiên một tháng rưỡi sau thì được mời ra, được đi họp, nói là các đoàn cứ hoạt động trở lại bình thường. Mừng quá trời đất!”.
Các đoàn lúc ấy thường gồm ba thành phần nghệ sĩ. Một từ Sài Gòn như Diệp Lang, Thanh Sang, Thanh Nga, Lệ Thủy, Thanh Tuấn, Mỹ Châu… Hai là nghệ sĩ miền Nam, miền Trung đi tập kết, như Lê Thiện, Tấn Đạt, Công Thành, Thanh Xuân…, hoặc hoạt động trong chiến khu như Kim Anh, Thanh Liễu, Như Ngọc, Đoan Phượng… Ba là nghệ sĩ “rặt người bắc” nhưng tham gia cải lương như Thanh Vy, Hà Quang Văn, Mạnh Dung, Thanh Dậu… Lực lượng mạnh nhất vẫn tập trung ở Nhà hát Ca kịch cải lương Trần Hữu Trang (sau đổi lại thành Nhà hát Trần Hữu Trang).
Dựng vở mang đề tài chống ngoại xâm
Thực sự nhiều vở diễn hay đã ra đời trong vòng 15 năm đầu sau 1975, nổi lên một loạt vở lịch sử chống xâm lăng hào hùng và cảm động, trong đó Tiếng trống Mê Linh và Thái hậu Dương Vân Nga là ngòi nổ đầu tiên. 1.000 năm chống giặc phương Bắc đã để lại biết bao tấm gương anh hùng cho cải lương khai thác. Sau cú hích của đoàn Thanh Nga, hầu như đoàn nào cũng dựng vở lịch sử, mà dựng rất hay, như Nhụy Kiều tướng quân, Gánh cỏ sông Hàn, Tâm sự Ngọc Hân, Nhiếp chính Ỷ Lan, Nữ tướng cờ đào, Rạng ngọc Côn Sơn, Tô Hiến Thành xử án
Không chỉ Thanh Nga nổi tiếng lừng lẫy một lần nữa với những vai anh thư, mà các vở lịch sử còn phát hiện ra nhiều ngôi sao tự làm mới mình qua những nhân vật anh hùng. Ngọc Hương và Hoài Thanh bật sáng trong Gánh cỏ sông Hàn. Diệu Hiền thành nữ tướng Triệu Thị Trinh của vở Nhụy Kiều tướng quân và Hoài Thanh lại là anh kép đẹp mới toanh sáng vụt lên trong vai tướng quân Lê Minh dũng lược. Tâm sự Ngọc Hân cũng phát hiện ra một Nguyễn Huệ – Tuấn Thanh trẻ đẹp, ca hay, oai phong lẫm liệt. Từ vai này Tuấn Thanh cứ lọt vào mắt xanh các đạo diễn suốt mấy chục năm trời mỗi khi dựng vở lịch sử. Tô Hiến Thành xử án là câu chuyện đáng khâm phục khi người ta phải công tâm xử cả người thân để giữ gìn kỷ cương phép nước và bảo vệ giang sơn, mà nghệ sĩ Trường Sơn và Thanh Loan của làng Hồ Quảng đã diễn thật xuất sắc.
Loạt vở thứ hai thuộc chủ đề chống Pháp, Mỹ, cũng thành công vang dội. Bình Tây đại nguyên soái, Tiếng hò sông Hậu, Khách sạn hào hoa, Tìm lại cuộc đời, Ánh lửa rừng khuya, Người ven đô, Ánh sáng và bóng tối, Cây sầu riêng trổ bông, Tiếng sóng Rạch Gầm, Nàng Hai Bến Nghé, Trăng lên đỉnh núi... Bên cạnh đó là một số vở tố cáo xã hội cũ như Tô Ánh Nguyệt, Đời cô Lựu được tái dựng. Các nghệ sĩ cũ của Sài Gòn diễn rất hay, từ Thành Được cho tới Thanh Thanh Hoa, Mỹ Châu, Lệ Thủy, Thanh Tuấn, Thanh Hải, Hồng Nga… đều nhập vai rất xuất sắc.

Một mảng nữa là vở tâm lý, ca ngợi nhân nghĩa ở đời, châm biếm thói hư tật xấu, cũng rất ăn khách. Bên cầu dệt lụa là vở kinh điển nhất, để lại một hình tượng Quỳnh Nga (Thanh Nga đóng), Trần Minh (Thanh Sang), Nhuận Điền (Thanh Tú) đẹp ngời ngời nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Rồi Lục Vân Tiên đã làm mới cho Bạch Tuyết – Thanh Sang, trở thành những mẫu mực sau này các em trẻ dựa vào đó mà biểu diễn… Ngao Sò Ốc Hến đã phát hiện Thanh Kim Huệ, Thanh Điền, Giang Châu có khả năng hài đến bất ngờ. Nàng Xê Đa càng bất ngờ hơn với cô đào đất bắc Thanh Vy quá sang trọng và chuẩn mực trong ca diễn.

Vé chợ đen

” Có một điều rất lạ, giai đoạn này dù là thời bao cấp khó khăn, thậm chí phải ăn độn, nhưng khán giả TP.HCM vẫn ùn ùn đi xem cải lương. NSND Diệp Lang kể: “Vé vừa bán một, hai tiếng đồng hồ đã hết sạch. Chợ đen thì giá gấp 3 – 4 lần. Hồi đó nghệ sĩ có tiêu chuẩn 1 cặp vé mời, nhưng anh em tuồn ra ngoài bán chợ đen vì lương thấp lắm, nghèo lắm. Nhưng nghèo thì nghèo, lên sân khấu là phấn khởi, vì có tuồng hát cả trăm suất vẫn còn đông, thậm chí cả ngàn suất như Nàng Xê Đa, Ngao Sò Ốc Hến…”

Nguồn: Báo Thanh Niên

Dựng lại vở cải lương kinh điển ‘Đời cô Lựu’ kết hợp với… bolero

Vở cải lương kinh điển Đời cô Lựu của soạn giả Trần Hữu Trang sẽ trở lại với khán giả với sự tham gia của dàn nghệ sĩ gạo cội và đặc biệt là sự có mặt của những giọng ca bolero.

NSND Bạch Tuyết sẽ vào vai cô Lựu ‘phiên bản 2018

Trong khuôn khổ chương trình Tài danh đất Việt (tổ chức lần đầu năm 2015 với vở Nửa đời hương phấn), nghệ sĩ Gia Bảo (giám đốc sản xuất) đã quyết định dựng lại vở Đời cô Lựu nổi tiếng nhằm chào mừng sự kiện 100 năm cải lương hình thành và phát triển vào năm 2018. Điểm đặc biệt của vở diễn lần này là ngoài việc tái hiện đúng với bản dựng của NSND Huỳnh Nga thì còn có sự kết hợp với các tình khúc bolero quen thuộc.
Nghệ sĩ Gia Bảo cho biết việc chọn lựa các ca khúc bolero đưa vào vở diễn được tính toán sao cho hợp lý và “đắt” nhất để gây bất ngờ cho khán giả qua tiếng hát của Cẩm Ly, Phi Nhung, Lệ Quyên, Quốc Đại, Hoài Lâm… Trước những ý kiến lo ngại đưa bolero vào sẽ “phá” chất cải lương, Gia Bảo cho biết các tiết mục bolero xuất hiện vào những lúc chuyển cảnh để sân khấu không bị “chết” và giúp khán giả không bị đứt mạch cảm xúc khi chuyển cảnh.
Đặc biệt, các ca sĩ sẽ hóa thân thành nhân vật trong vở diễn, thể hiện một đoạn bolero hợp với phân cảnh lúc đó. Theo tiết lộ, Cẩm Ly sẽ vào vai cô Lựu ở lớp đầu. Hai lớp sau sẽ do nghệ sĩ hải ngoại Phượng Liên và NSND Bạch Tuyết đảm nhận. Có mặt trong buổi công bố hôm 26.12, nữ nghệ sĩ không giấu được sự xúc động. Bà cũng rất ủng hộ việc đưa bolero vào để tạo thêm chất xúc tác cho vở diễn.
Nghệ sĩ Gia Bảo, giám đốc sản xuất chương trình, chia sẻ về việc đưa bolero vào cải lương
Đời cô Lựu “phiên bản 2018” còn có sự tham gia của những gương mặt gạo cội như NSND Ngọc Giàu, NSƯT Minh Vương, NSƯT Thanh Điền, NSƯT Kim Tử Long, Thanh Hằng, Linh Tâm, Bạch Long… Bên cạnh đó, nghệ sĩ hải ngoại Chí Tâm (nổi tiếng với vai Điệp trong Lan và Điệp) đảm nhận vai Võ Minh Thành 20 năm sau. Đáng tiếc là vở diễn lại thiếu vắng môt số nghệ sĩ gạo cội như NSƯT Bảo Quốc (đang ở nước ngoài), NSND Thanh Tòng (đã mất) hay NSND Lệ Thủy do vấn đề sức khỏe…
Theo tiết lộ của Gia Bảo, kinh phí cho vở diễn lên đến 800 triệu đồng trong khi giá vé vẫn giữ nguyên từ 200.000 – 1 triệu đồng như hai năm trước. Cầm chắc từ lỗ đến hòa vốn nhưng nam nghệ sĩ hi vọng chương trình sẽ thu hút khán giả mộ điệu gần xa để chương trình có thêm nhiều vở diễn kinh điển nữa ra đời trong thời gian tới. Đời cô Lựu sẽ công diễn lúc 19 giờ 30 phút ngày 21 và 28.1.2018 tại Nhà hát Bến Thành (Q.1, TP.HCM).

Dựng lại vở Đường gươm Nguyên Bá

Vở cải lương nổi tiếng của soạn giả Hoa Phượng Đường gươm Nguyên Bá sẽ được NSƯT Hoa Hạ dàn dựng lại, với suất diễn duy nhất tại Nhà hát Trần Hữu Trang (rạp Hưng Đạo cũ, Q.1, TP.HCM) vào tối 31.3.

Vở diễn lần này vẫn giữ nguyên kịch bản gốc, với vai diễn sẽ do các nghệ sĩ đang được yêu mến hiện nay thể hiện như NSƯT Lê Tứ, Điền Trung, Hà Như, Dũng Nhí, Hoài Nam…; các nghệ sĩ Chuông vàng vọng cổ Võ Minh Lâm, Thu Vân, Thanh Toàn. Đặc biệt, vai Đông Sơn thiền sư trong vở, gắn liền tên tuổi nghệ sĩ nổi tiếng Chí Tâm (ảnh), lần này vẫn sẽ do ông thể hiện. Được biết, nghệ sĩ Chí Tâm sẽ rời VN từ giữa tháng 3 nhưng đã dời lại ngày xuất ngoại để tham gia vở diễn mà mình yêu mến này.

Nguồn: Theo báo Thanh niên

Vở chèo cổ ‘Tống Trân Cúc Hoa’ thu hút khán giả Hà Nội

Người xem lấp kín khán phòng tầng một Nhà hát Chèo Việt Nam và vỗ tay tán thưởng sau mỗi hồi diễn.

Nhà hát Chèo Việt Nam diễn vở Tống Trân Cúc Hoa do Đoàn Vinh đạo diễn cuối tuần qua. Trước giờ kéo màn, rất đông khán giả tập trung ở phòng bán vé ngoài sảnh nhà hát. Gần 300 vé bán ra không còn, nhân viên phải phát tập giấy mời cất trữ trong tủ làm vé vào cửa cho người xem.

Chị Lan – nhân viên phòng vé – cho biết vở chèo là một trong những tác phẩm tiêu biểu được nhà hát chọn biểu diễn vào thứ bảy cuối cùng của mỗi tháng trên sân khấu lớn (có sức chứa gần 1.000 chỗ ngồi). “Vé buổi diễn lớn thường được phát ra khoảng 300 đến 500. Những buổi như vậy người xem đến rất đông và thường xuyên kín ghế tầng một. Với vở Tống Trân Cúc Hoa, nhiều người đặt vé từ mấy tuần, gần sát giờ diễn họ mới đến lấy nên không còn vé. Chúng tôi phải phát giấy mời phục vụ những khán giả đến muộn”, chị nói.

Lượng khán giả đến xem đa phần là trung niên và cao tuổi, lấp đầy hàng ghế tầng một của Nhà hát. Buổi diễn kết thúc, nhiều người túm tụm lại và bàn tán sôi nổi về những vấn đề vở chèo đặt ra. Chân đi tập tễnh vì chứng đau khớp gối, khán giả Nguyễn Thị Tuyết (72 tuổi) len chậm ra ngoài. Bà chia sẻ: “Tôi đã xem Tống Trân Cúc Hoa từ năm 18 tuổi tại Đoàn chèo Kim Lan (nay là Nhà hát Chèo Hà Nội). Dù nhà cách điểm diễn hơn 10 cây số, tôi vẫn bắt ôtô đến xem. Vở diễn lần này đã cải biên nhiều chi tiết nhưng vẫn hấp dẫn và nguyên giá trị”.

Khán giả đến xem vở “Tống Trân Cúc Hoa”.

Vợ chồng khán giả Nguyễn Văn Bình, quê ở Phú Xuyên ra thăm người thân từ sáng sớm và nhanh chóng đặt mua vé xem chèo. Anh Bình cho biết bản thân là người mê nghệ thuật truyền thống và từng đọc tích truyện về mối tình của Tống Trân, Cúc Hoa nên nhất quyết phải có bằng được chỗ ngồi trong rạp vì sớm hôm sau gia đình anh phải về lại quê. Anh chia sẻ: “Đây là lần đầu tôi xem Tống Trân Cúc Hoa và lần thứ ba thưởng thức các vở diễn của Nhà hát Chèo Việt Nam. Hôm nay, tôi ấn tượng với lượng khán giả đến rạp hát. Khán phòng đông hơn rất nhiều so với những lần trước tôi đến đây”.

Tống Trân Cúc Hoa khuyết danh tác giả, là truyện thơ Nôm Việt Nam. Tác phẩm gồm 1.689 câu lục bát, ra đời khoảng giữa thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Tống Trân Cúc Hoa từng nhiều lần được các đơn vị chèo cả nước chuyển thể kịch bản và dựng vở diễn. Tác phẩm ngợi ca tình yêu, lòng chung thủy và tình mẫu tử, đồng thời lên án thế lực chà đạp khát vọng hạnh phúc cá nhân.

Một cảnh trong “Tống Trân Cúc Hoa”.

Tống Trân – nho sĩ nghèo – mồ côi cha từ nhỏ. Lớn lên, gia cảnh nghèo khó, anh dắt mẹ đi tha phương cầu thực. Một hôm, mẹ con Tống Trân qua nhà Cúc Hoa – con gái phú ông. Động lòng thương, Cúc Hoa mời mẹ con Tống Trân vào nhà, sai người đem gạo ra cho. Sau đó, cô phải lòng chàng nho sĩ, ngỏ ý kết duyên. Mặt khác, cha Cúc Hoa đã hứa gả cô cho công tử tuổi ngoài 50. Ông bắt Cúc Hoa đuổi mẹ con Tống Trân ra khỏi nhà nhưng cô chống lại. Về sau, phú ông đuổi con gái ra khỏi nhà kèm theo những lời chì chiết cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối.

Cúc Hoa lấy Tống Trân, sống trong căn nhà lụp xụp. Cô bươn chải đủ nghề để chồng yên tâm dùi mài kinh sử. Đến kỳ, Tống Trân khăn gói quả mướp lên kinh thi và đỗ trạng nguyên. Nhà vua muốn gả con cho anh nhưng Tống Trân từ chối. Chính lẽ đó mà công chúa oán hận, xui cha cử Tống Trân đi sứ 10 năm sang nước Tần (Trung Quốc).

 

Ở quê nhà, Cúc Hoa và mẹ ngày đêm mòn mỏi ngóng trông tin tức Tống Trân. Thấy con rể mãi không về, cha Cúc Hoa ép cô tái giá với viên Đình Trưởng tuổi ngoài ngũ tuần trong làng và đuổi mẹ Tống Trân xuống ở chuồng trâu. Quá đau khổ, Cúc Hoa định tự tử nhưng được thần núi cứu rồi giúp cô báo mộng cho Tống Trân trở về. Cuối cùng, gia đình đoàn tụ, cha Cúc Hoa nhận lỗi với con rể.

Để phù hợp thị hiếu công chúng đương đại, đạo diễn Đoàn Vinh đã giản lược nhiều chi tiết so với kịch bản gốc của cố giáo sư Hà Văn Cầu, rút ngắn thời gian diễn. Chất hài hước được đưa vào khi đạo diễn xây dựng nhân vật gia nô yểu điệu, hóa trang như diễn viên hề. Điều này tạo ra lối thưởng thức thoải mái, không căng cứng cảm xúc cho người xem.

Vở Tống Trân Cúc Hoa kéo dài gần hai tiếng. Sân khấu được bài trí đơn giản, phía sau dựng duy nhất khung cửa treo hoành phi câu đối và cuốn thư, đậm không gian xưa. Mỗi hồi diễn khép lại, khán giả vỗ tay rầm rộ. Qua giai điệu chèo, người xem cảm động trước lời tự sự, giãi bày nỗi lòng của nhân vật Cúc Hoa khi phải đối đầu cha, bảo vệ hạnh phúc riêng và một lòng thờ chồng nếu Tống Trân gặp chuyện chẳng lành.

Xem thêm vở chèo Tống Trân Cúc Hoa tại đây Chèo Tống Trân Cúc Hoa

Theo: Trọng Trường/Giải Trí Vnexpress.net

 

Hội nghị Diên Hồng” giải cứu sân khấu

Nhiều nghệ sĩ và các nhà nghiên cứu đã ví von Hội thảo “Nâng cao chất lượng hoạt động nghệ thuật sân khấu trong thời kỳ mới” như một “Hội nghị Diên Hồng” nhằm giải cứu ngành sân khấu.

Đã lâu lắm rồi, giới sân khấu mới có một cuộc gặp của nhiều tên tuổi sáng giá đến vậy và điều quan trọng là họ đã cùng đưa ra những báo động đỏ về sự khủng hoảng của sân khấu hiện nay và kêu cầu sự trợ giúp.

 Vở “Nghêu Sò Ốc Hến” của Nhà hát Tuồng VN

 

Sân khấu đang ở… khoa hồi sức cấp cứu!

“Nhìn vào diện mạo sân khấu hiện nay, có cảm giác sân khấu đang nằm ở khoa hồi sức cấp cứu và những người làm nghệ thuật, công chúng đang chứng kiến sự sống yếu ớt của nó giống như người bệnh mắc những căn bệnh trầm kha ở giai đoạn cuối khó cứu vớt”, sự ví von của NSƯT Lê Chức, Phó Chủ tịch Hội Nghệ sĩ sân khấu VN phần nào diễn tả một thực tế đó là sân khấu đang cực kỳ bế tắc… Câu chuyện kể khó, kể khổ của sân khấu đã thành chuyện thường ngày ở huyện, tuy nhiên lần này chính những vị lãnh đạo hội nghề nghiệp và cả những nghệ sĩ sáng tạo ra các tác phẩm đều đã thẳng thắn mổ xẻ từng vấn đề cụ thể, thậm chí nêu tên đích danh trách nhiệm của từng cá nhân.

NSƯT Trần Minh Ngọc, Trưởng ban lý luận phê bình, Hội Nghệ sĩ sân khấu VN đánh giá chung về diện mạo sân khấu hiện nay quá lạc hậu, chậm phát triển so với hiện thực đang thay đổi nhanh theo đà phát triển của kinh tế, văn hóa, xã hội. Đã thực sự có nhiều đổi mới trong văn hóa, nghệ thuật … Nhiều mâu thuẫn mới nảy sinh, thậm chí cả xung đột giữa các thế giới mới – cũ, trong khi đó, sân khấu chúng ta chỉ quanh quẩn với các đề tài về quá khứ lịch sử, về đời sống hằng ngày với những mâu thuẫn cá nhân, vụn vặt, đời thường… “Mò mẫm làm sân khấu theo thị trường mà không nắm được quy luật sẽ dẫn đến bế tắc. Chẳng hạn, các sân khấu xã hội hóa ở phía Nam chạy theo thị hiếu của một bộ phận khán giả đã biến sân khấu thành một thứ “nghệ thuật tiêu dùng”, biến khán giả thành người thụ động, người chứng kiến những “trò” kinh dị, đồng tính, ma mị”, NSƯT Trần Minh Ngọc nhấn mạnh.

Hội thảo quy tụ rất nhiều thành phần (do Hội Nghệ sĩ sân khấu VN phối hợp với Sở VHTTDL tỉnh Tuyên Quang tổ chức). Điều đáng tiếc nhất là thiếu vắng rất nhiều các vị trưởng đoàn, giám đốc các đơn vị nghệ thuật sân khấu. Bàn về nâng cao chất lượng hoạt động nghệ thuật sân khấu trong thời kỳ mới thì chính những vị lãnh đạo, chỉ đạo nghệ thuật là những nhân tố quan trọng, những người chèo lái quyết định số phận cho từng đơn vị và tạo nên tác phẩm lại vắng mặt, lẽ ra họ là đối tượng cần phải nghe nhất. Trong khi đó, đích thân vị Chủ tịch Hội Nghệ sĩ sân khấu VN, NSND Lê Tiến Thọ đánh giá điểm thiếu lớn nhất hiện nay ở bình diện chung các đơn vị công lập và ngoài công lập chính là đang đánh mất vị trí tiên phong của nghệ thuật sân khấu, né tránh những xung đột, không có tính dự báo, định hướng xã hội, nhiều tác phẩm nghệ thuật đang ở tình trạng minh hoạ, là cái bóng đang đuổi theo sự phát triển của xã hội. Vậy vai trò của lãnh đạo đơn vị nghệ thuật và chỉ đạo nghệ thuật ở các đơn vị hiện nay đang ở đâu?

Có rất nhiều ý kiến cho rằng những người làm công tác phê bình lý luận hoàn toàn bế tắc trước hiện trạng của sân khấu. Sân khấu xuống cấp, tác phẩm kém chất lượng nhưng không hề thấy những bài phê bình đánh giá thực chất để những người làm nghệ thuật có thể soi vào và sửa mình. Tác giả Nguyễn Hiếu nhận định: “Ở nước ta hiện nay không có một tên tuổi nào xứng đáng được gọi là nhà phê bình sân khấu, kể cả Nguyễn Văn Thành hay TS Nguyễn Thị Minh Thái…, những người được giới sân khấu coi là am hiểu và gắn bó lâu năm với kịch trường. Tại sao lại có tình trạng lĩnh vực phê bình ngày càng yếu kém như vậy? Đó là do thói quen thích nghe lời hay, thích tán tụng, ngại bị phê phán là một căn bệnh khó chữa”. Một trong những nguyên nhân khiến các cây bút phê bình trở nên thiếu tính chiến đấu xây dựng bởi sợ bị ghét bỏ, bị cô lập khi dám “phê bình” thẳng thắn…

Chấp nhận “đồ ăn nhanh” nhưng không bị ngộ độc…

PGS.TS Trần Trí Trắc cho rằng trong cơ chế thị trường hôm nay, nghệ thuật sân khấu VN có hai dòng sáng tạo chính là “tinh hoa” và “đại chúng”. Dòng “tinh hoa” muốn đổi mới trước hết phải có Mạnh Thường Quân biết kinh doanh để chăm lo. Trước đây Nhà nước là Mạnh Thường Quân đối với sân khấu bởi cơ chế bao cấp, nhưng sự bao cấp cào bằng và hào phóng quá đã làm cho nghệ sĩ “vô dụng” tạo ra “nhiều tác phẩm yếu, thiếu tác phẩm hay”. Theo PGS, TS Trần Trí Trắc, chính bản thân Nhà nước cũng cần có đổi mới trong đầu tư để tạo hiệu quả cao hơn với những tác phẩm tư tưởng cao, có nghệ thuật hấp dẫn. Mặt khác, dòng “đại chúng” cũng cần hướng tới thị hiếu khán giả, hoà vào cảm xúc thẩm mỹ, hoà vào thời công nghiệp hoá, hiện đại hoá giống như “đồ ăn nhanh” nhưng không bị ngộ độc… Cũng nhìn ở góc độ đầu tư cho tác phẩm, NSƯT Trần Minh Ngọc cho rằng, đã tới lúc các nhà quản lý cần thay đổi cách làm kiểu xin – cho, đối xử công bằng, hợp lý giữa trong và ngoài công lập. Việc đầu tư cho sáng tác nên theo việc xét duyệt các dự án thông qua thẩm định chất lượng.

Thật kỳ lạ năm nào giới sân khấu cũng có hàng loạt giải thưởng từ chính Hội nghề nghiệp là Hội Nghệ sĩ sân khấu VN cho đến những giải thưởng tại các cuộc thi, liên hoan cho từng loại hình nghệ thuật, lực lượng nghệ sĩ được phong tặng danh hiệu ngày càng nhiều. Câu hỏi đặt ra chính với những người làm sân khấu là vì sao một đội ngũ những người làm nghệ thuật sân khấu hùng hậu là vậy mà vẫn để cho sân khấu bị tụt dốc? Bên cạnh sự chờ đợi những chính sách mới ưu đãi cho những thành phần sáng tạo sân khấu từ Nhà nước thì tại sao những người sáng tạo ra tác phẩm sân khấu không tự thay đổi mình, thay đổi tư duy làm nghệ thuật để tiếp cận thực sự với khán giả.

Qua những ý kiến đóng góp từ hội thảo cũng như yêu cầu từ thực tiễn, Ban sáng tác của Hội Nghệ sĩ sân khấu VN sẽ rà soát lại đội ngũ, đặc biệt là tác giả trẻ để tập huấn, đào tạo nuôi dưỡng tác giả trẻ; Mở rộng đầu tư sáng tác cho sân khấu thử nghiệm để tạo nên hình thức sân khấu mới; Tổ chức nhiều cuộc thi sáng tác kịch bản sân khấu để lựa chọn tác phẩm có chất lượng, sau đó đầu tư cho dàn dựng biểu diễn; Hội sẽ tổ chức mời các nhà lý luận đi xem tác phẩm sau đó có trao đổi bàn tròn và có những tác động qua lại với đối tượng sáng tạo; Sẽ tổ chức các cuộc hội thảo để đánh giá các cuộc thi, liên hoan của Bộ VHTTDL và của Hội tổ chức; Hội sẽ kiến nghị với các cơ quan chức năng xây dựng hay sửa đổi Luật Di sản văn hóa để xã hội quan tâm bảo tồn, phát triển nghệ thuật sân khấu; Xây dựng Quy chế tự do sáng tác; Xây dựng Quỹ hỗ trợ phát triển nghệ thuật sân khấu VN…

(NSND Lê Tiến Thọ, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ sân khấu VN)

Nguồn: Theo Thúy Hiền báo văn hóa

Lại “nóng” vấn đề vi phạm bản quyền VHNT: Đến sân khấu cũng không tha!

Câu chuyện vi phạm bản quyền trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật tưởng chừng chỉ có ở âm nhạc, điện ảnh, văn học… Tuy nhiên, hiện nay đến cả lĩnh vực sân khấu kịch, cải lương vấn nạn này cũng “không tha” khiến những người làm nghề càng bức xúc.

Sân khấu cũng “nóng” vấn đề vi phạm bản quyền

Tưởng chừng ít xảy ra việc đánh cắp bản quyền tác phẩm nhưng thời gian gần đây trên lĩnh vực sân khấu đã xuất hiện việc các nghệ sĩ trẻ vô tư “đánh cắp”, “xài chùa” những trích đoạn, tác phẩm sân khấu mà không hề xin phép. Khi tác giả tình cờ phát hiện lên tiếng phản ứng thì họ tiếp tục phân bua “không biết” hoặc “quên xin phép” (?!).

Không còn là câu chuyện của riêng ai, hành động quen dùng miễn phí, không xin phép tác giả, chủ sở hữu… của một số nghệ sĩ trẻ trong thời gian gần đây không còn là hiện tượng cá biệt. Phần lớn các vi phạm bản quyền thời gian qua “nóng” trên các gameshow truyền hình. Các thí sinh, nghệ sĩ trẻ vô tư đánh cắp ý tưởng vở diễn, vai diễn… đưa vào tiết mục dự thi, chương trình của mình mà không hề có sự đồng ý của tác giả. Diễn viên Gia Bảo mỗi lần vi phạm tác quyền đều xin lỗi nhưng sau đó lại luôn luôn… vi phạm. Điển hình việc sử dụng vai diễn, chi tiết trong trích đoạn của Má ơi, tía Dzìa! của Sân khấu kịch Idecaf trong tiết mục dự thi của mình ở chương trình Sao nối ngôi. Chỉ đến khi nghệ sĩ Thành Lộc lên tiếng chỉ trích thì Gia Bảo mới vội vàng… xin lỗi. Nhưng cũng chỉ thời gian ngắn sau đó, chính Gia Bảo lại một lần nữa phạm lỗi khi dựng lại vở Đời cô Lựu nhưng không hề xin phép NSND Huỳnh Nga và gia đình ông. Hay như mới đây nhóm cà phê kịch Đời cũng bị phản ứng vì vô tư dàn dựng chuyển thể sang kịch từ các vở kinh điển Bên cầu dệt lụa; Tô Ánh Nguyệt…

​ Ba tôi lúc sinh thời từng muốn đốt hết những kịch bản của ông vì có nhiều nghệ sĩ sử dụng chất xám của ông với thái độ thiếu tôn trọng. Thậm chí họ đã tự ý chỉnh sửa mà không có sự đồng ý của tác giả…” (Nghệ sĩ QUẾ TRÂN, con gái của cố NSND Thanh Tòng)

Tác giả Xuyên Lâm cũng từng bức xúc trên trang cá nhân của mình khi thấy kịch bản Nợ sữa chuyển thể từ truyện ngắn Hiu hiu gió bấc của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư bị đạo diễn Vũ Trần sử dụng trong Kịch cùng Bolero. Soạn giả Hoàng Song Việt cũng có nhiều tác phẩm bị các đài truyền hình sử dụng mà không trả tác quyền, thậm chí chỉ cần hỏi xin phép. Tác giả cho rằng, những tác phẩm cải lương bị sử dụng bằng việc chế tác, biến đoạn mà không đề tên trong phần tác giả là việc không thể chấp nhận được.

Chính vì những lùm xùm trong vấn đề bản quyền tác giả nên có những gia đình nghệ sĩ đã tuyên bố không cho phép sử dụng kịch bản của ông, cha mình. Trong đó có hai soạn giả nổi tiếng, có nhiều tác phẩm kinh điển trong sân khấu cải lương là cố NSND Nguyễn Thành Châu và NSND Thanh Tòng. Nghệ sĩ Quế Trân, con gái của cố NSND Thanh Tòng đã từng lên tiếng: “Ba tôi lúc sinh thời từng muốn đốt hết những kịch bản của ông vì có nhiều nghệ sĩ sử dụng chất xám của ông với thái độ thiếu tôn trọng. Thậm chí họ đã tự ý chỉnh sửa mà không có sự đồng ý của tác giả…”.

Việc hai gia đình của hai soạn giả, đạo diễn nổi tiếng cực chẳng đã không cho phép sử dụng tác phẩm của ông, cha họ đã nói lên vấn đề nghiêm trọng đến nhường nào. Bởi trong giới sân khấu, việc trao đổi, hỏi xin phép một tác phẩm, tác giả không hề khó khăn như các loại hình khác. Nhưng phần lớn, những người làm nghề trẻ đã quên đi điều quan trọng đó là sự tôn trọng. NSƯT Trần Minh Ngọc, người đã đạo diễn nhiều tác phẩm nổi tiếng của sân khấu cho rằng có hai nguyên nhân chính của việc này: Thứ nhất, họ chạy theo áp lực thời gian, không chịu nghĩ, không chịu sáng tạo, lấy cái có sẵn của người khác làm của mình. Thứ hai chạy theo lợi nhuận, không muốn trả tiền mà muốn sử dụng miễn phí, đây là suy nghĩ ích kỷ mà người làm nghệ thuật phải tránh xa. “Tôi thấy trong đời sống sân khấu không phải tác giả nào cũng khó khăn. Nhưng những người sử dụng nó lại phớt lờ, không tôn trọng tác giả thì trách sao họ không lên tiếng phản ứng. Bản thân tôi là đạo diễn khi xin phép tác giả nổi tiếng, họ không những vui mừng mà còn tạo điều kiện cho mình dàn dựng vở diễn tốt nhất. Trong thời hiện đại không khó để liên hệ tác giả hoặc sở hữu tác phẩm. Vậy tại sao lại không tôn trọng quyền tối thiểu của họ”, NSƯT Trần Minh Ngọc nói.

​Sao không đi làm “khai sinh” cho “đứa con tinh thần” của mình?

Đành rành việc vi phạm bản quyền tác giả văn học, nghệ thuật là hành vi cần lên án nhưng các tác giả cũng cần có ý thức hơn với “đứa con tinh thần” của mình. Trả lời phóng vấn Văn Hóa, đại diện Cục Bản quyền, Cục Nghệ thuật biểu diễn (Bộ VHTTDL) đều cho rằng, vấn đề quan trọng để giải quyết thực trạng này chính là việc nâng cao ý thức bảo hộ tài sản trí tuệ. Bản thân chủ sở hữu các tác phẩm cũng cần tự ý thức trong việc đăng ký bảo hộ tài sản trí tuệ của mình. Đăng ký bảo hộ quyền tác giả không chỉ giúp chủ sở hữu có quyền sử dụng chính tác phẩm của mình mà còn giúp chủ sở hữu có thể tiến hành các biện pháp hành chính và hình sự để xử lý hành vi xâm phạm bản quyền.

Khi phát hiện những vi phạm sở hữu trí tuệ, đối tượng bị xâm hại bản quyền cần đưa ngay sự việc ra cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo Điều 220, Luật Sở hữu trí tuệ, các cơ quan có trách nhiệm xử lý các vụ việc có vi phạm xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan bao gồm thanh tra, các cơ quan như công an, hoặc tòa án.

Một trong những cái khó của việc thực thi quyền tác giả, quyền liên quan tại VN chính là nhận thức của các nhóm đối tượng trong xã hội về vai trò của quyền này chưa đầy đủ. Các tranh chấp liên quan tới tài sản cá nhân là quan hệ dân sự. Cơ quan hành chính, tòa án chỉ thụ lý khi bản thân tác giả có đơn khiếu kiện đến cơ quan quản lý nhà nước. Vì vậy, khi các tác giả không lên tiếng thì cơ quan quản lý nhà nước sẽ không có cơ sở để thực thi xử lý các vi phạm, vì vậy để thực hiện quyền lợi của mình khi bị xâm phạm, các tác giả cần có tiếng nói bằng văn bản gửi đến cơ quan quản lý nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền. Các cơ quan quản lý nhà nước sẽ có giám định quyền tác giả, quyền liên quan và xử lý các hành vi vi phạm. Quan trọng nhất, chính các tác giả cần có sự chuyển dịch trong suy nghĩ và hành động để tự bảo vệ tài sản của mình, không thể chờ đợi sự phát hiện sai phạm từ phía báo chí hay sự “bảo vệ” từ các cơ quan quản lý cho “đứa con tinh thần của mình”.

Nguồn: Theo Mai Linh- Anh Đào báo Văn hóa

Lịch sử và đặc điểm nghề hát chèo Việt Nam

Từ bao đời nay hát chèo đã trở thành một loại hình sinh hoạt văn hóa nghệ thuật quen thuộc của người dân Việt Nam, nuôi dưỡng đời sống tinh thần dân tộc bởi cái chất trữ tình đằm thắm sâu sắc.

Trong kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian dân tộc, chèo là một loại hình sân khấu kịch hát đậm đà tính dân tộc, với sự kết hợp nhuần nhuyễn của hàng loạt yếu tố: hát, múa, nhạc, kịch mang tính nguyên hợp vô cùng độc đáo.

“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy
Hội chèo làng Ðặng đi qua ngõ
Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay”

Lịch sử nghề Hát chèo
Kinh đô Hoa Lư – Ninh Bình được coi là đất tổ của sân khấu chèo, và người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh vào thế kỷ 10. Sau này loại hình nghệ thuật biểu diễn này đã được phát triển rộng ra đồng bằng Bắc Bộ. Địa bàn phố biến từ Nghệ – Tĩnh trở ra.

Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Từ thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, họ đã biết biểu diễn các vở chèo đầu tiên trên sân đình. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo.

Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ 10. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn.

Sự phát triển của chèo có một mốc quan trọng là thời điểm một binh sỹ quân đội Mông Cổ đã bị bắt ở Việt nam vào thế kỷ 14. Binh sỹ này vốn là một diễn viên nên đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam. Trước kia chèo chỉ có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh hưởng của nghệ thuật do người lính bị bắt mang tới, chèo có thêm phần hát.


Một cảnh trong vở Hồ Xuân Hương

Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Do không được triều đình ủng hộ, chèo trở về với những người hâm mộ ban đầu là nông dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm. Tới thế kỷ 18, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Những vở nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn này. Đến thế kỷ 19, chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai.

Chèo sân đình, còn được gọi là chèo cổ: Là loại hình chèo cổ của những phường chèo xưa, thường được biểu diễn ở các sân đình, sân chùa, sân nhà các gia đình quyền quý. Sân khấu chèo sân đình thường chỉ là một chiếc chiếu trải ngoài sân, đằng sau treo chiếc màn nhỏ, diễn viên và nhạc công ngồi hai bên mép chiếu tạo dàn đế. Chèo sân đình diễn theo lối ước lệ, cảnh trí chỉ được thể hiện theo ngôn ngữ, động tác cách điệu của diễn viên. Đạo cụ của người diễn hay sử dụng là chiếc quạt.

Trên đường xâm nhập ngày càng sâu vào mọi mặt sinh hoạt đời thường của bà con thôn xóm, những người làm chèo đã nhanh chóng kịp thời chuyển địa điểm diễn qua sân đình, từ lòng đình hoặc thềm đình quay ra ba phương sáu hướng, lấy đấy làm khán trường ngoài trời rộng rãi phóng khoáng. Cứ thế, dần hình thành cả loạt nguyên tắc kịch thuật linh hoạt độc đáo, mà nhiều nhà chuyên môn gọi là sân khấu ba mặt.

Quá trình tìm cách thể hiện các tích mới, nhân vật mới, tình huống mới, nghệ nhân đã vay mượn các loại dân ca, dân vũ trò diễn dân gian và “chèo hoá” chúng dần cho tới khi thành thủ pháp của vốn nghề nhà. Không loại trừ những cái mới không thể không sáng tạo, ban đầu có thể còn vụng về, gồ ghề, sau được người này kẻ kia uốn nắn sửa sang mà thành hay dần, đẹp dần, với sức diễn tả mạnh dần.

Dường như trong chèo cổ, cái cười ngày càng chiếm thời gian dài, càng chú ý phản ánh những thói hư tật xấu của đời thường. Ðiều đó, làm cho tính xã hội của chèo ngày mỗi nổi đậm về sau. Nổi bật hơn cả là lớp việc làng chỉ bằng nói thường, nói lối, nói rao, “ngâm thơ”, với đủ thành phần nhân sự của bộ máy chính quyền cơ sở đại diện cho pháp luật, tập tục, đạo lý, tôn giáo, bị vạch mặt thật ê chề.

Song nhà nghề trân trọng gìn giữ, coi là mẫu mực cho nghề Tổ, còn là cả loại hình tượng nhân vật nữ tốt có, chưa hẳn tốt có, chưa hẳn xấu cũng có, đặc biệt là số nhân vật nữ vượt khỏi vòng kiềm toả của đạo lý phong kiến, như Thị Màu, đào Huế, Suý Vân,…

Một cảnh trong vở Quan Âm Thị Kính

Có điều, nếu Thị Màu chỉ là nhân vật đối tỷ cốt làm bật rõ sự nhẫn nhục của Thị Kính lần nữa, để đức độ nàng khả dĩ đủ mức lên toà sen thành Phật Quan Âm; nhân vật đào Huế tuy chẳng ai nói là “phản diện” nhưng cũng không được nhà Nho “ưa”, vẫn chỉ là chi tiết phụ, mà nếu có lược đi cũng không hại gì đến kết cấu và chủ đề tích truyện; còn Suý Vân, người phụ nữ bất đắc dĩ đành bỏ chồng, lại nằm vào bản thân (tích) trò, hay nói đúng hơn, dễ tới 2/3 thời gian diễn tích Kim Nham là để thể hiện nàng.

Thị Màu, Ðào Huế, Suý Vân đều được nghệ nhân sáng tạo thành khuôn diễn với nhiều bài hát múa dành riêng, độc đáo, tới nay vẫn giữ nguyên giá trị thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật.

Những tính cách, chính là đức độ bản sắc nhân vật ấy thường bộc lộ thụ động, tức là họ chỉ phô bày tâm trạng và cách ứng phó khi sự biến đã xẩy ra, bằng cách diễn xuất mang nội dung và hình thức nhiều ít hấp dẫn đủ sức làm gương cho người xem. Chỉ số ít mang tính cách vượt khỏi quan điểm phong kiến mới phô bày một cách chủ động, mà có đúng là cố ý, khi nghệ nhân dùng những làn điệu và khuôn diễn thật đặc sắc làm rạng rỡ nghệ thuật cổ truyền: tính từ những nhân vật Thày Ðồ, Thày Bói, Phù Thuỷ, Vợ Mõ đến Thị Màu, Ðào Huế, Suý Vân.

Ðồng thời với sự xuất hiện lần lượt những cái mới trên, tính xung đột hay thường gọi là tính kịch trong một số bản trò cùng tuỳ người soạn, tuỳ tích, tuỳ phường gánh và khán giả mà gia tăng đáng kể. Ðiều này đi theo với việc bộc lộ tính cách nhiều hay ít chủ động của nhân vật. Như xung đột trực diện và quyết liệt giữa Ðào Huế và Tuần Ty (với đào Nấp) là một bước “mới” so với xung đột cũng trực diện trước đấy giữa Châu Long và Lưu Bình, hoặc giữa Vợ Mõ với Xã Trưởng.

Ở đây cũng thấy rõ quá trình thu hút hòa nhập số loại hình dân ca, dân vũ, diễn xướng và trò diễn dân gian làm thành bản thân nghệ thuật chèo, mà thực tế diễn xuất của số vở truyền thống còn hằn rõ dấu vết. Cho nên, nói “chèo ra đời từ thời Ðinh, xây dựng trên cơ sở trò nhại và hát múa” như một nhà nghiên cứu đã viết là chưa thỏa đáng. Thực ra, chèo từ loại Giáophát triển thành có tích, có nhân vật, từ đấy du nhập, chuyển biến các loại hát bỏ bộ (trong sinh hoạt hát Xoan, hát Dậm, hát Dô,…), các loại hát nói(trong hát ả đào, hát văn, hát xẩm,…), kết hợp với số động tác trong múa(hát) chèo đò, múa (hát) cửa đình(các khuôn múa bàn tay, múa lượn ngón, múa cánh tay), múa mâm đên, múa qnạt, múa cờ,…; với cả những trò nói mặt, trò trình nghềvốn rất phổ biến trong những hội làng, đánh dấu từng mức trình độ sáng tạo và thưởng ngoạn nghệ thuật của đồng bào từng vùng.

Như vậy, chèo sân đình hình thành ngôn ngữ nghệ thuật ngay khi thành hình và phát triển kịch chủng, là đã lưu ý nhiều đến số lớp trò chuyên dùng, xếp cạnh số lớp trò đa dùng, trong đó, âm nhạc giữ vai trò rất quan trọng. Nói cách khác, những gì làm người xem phân biệt chèo với các kịch chủng cùng nằm trong loại hình kịch hát dân tộc (Việt) như tuồng, kể thêm cải lương, chưa nói ôpêra, ôpêrét hay kịch nói, những cái lọt vào tai, hiện ra trước mắt người xem (dù là tâm tư tình cảm nhân vật hay không gian thời gian xẩy ra sự biến) chính là âm nhạc, gồm cả nhạc gõ, nhạc khí và làn điệu qua nghệ thuật biểu diễn của nhà nghề.

Do phải phụ thuộc hoặc chịu ảnh hưởng nhiều ít của những biến thiên văn hóa xã hội mỗi thời kỳ lịch sử mà từ Lý Trần về trước, nhạc dân gian và nhạc cung đình hòa hợp gần như là một; sang đời Hậu Lê có lúc nhạc cung đình hướng ngoại cố giữ vị trí chủ lưu, song không bao lâu cũng chịu bất lực để “tục nhạc” (trong đó có nhạc chèo) bùng lên, ùa tràn vào các lễ nghi triều miếu, bất chấp mấy lần vua Lê chúa Trịnh ra sắc chỉ cấm đoán ngăn chặn, như từng chép ở Ðại Việt sử lý, Vũ trung tuỳ bút. Tới thế kỷ XIX, nhà Nguyễn có lúc muốn thâu tóm tất cả những gì thuộc lễ nhạc về một mối, lập hẳn một Thự, rồi một ban Hiệu Thư chuyên lo mà cũng chỉ cản trở chuyện đó phần nào. Bởi chèo sân đìnhnhờ bám chắc vào đời sống đông đảo bà con và các Hội làng, nên dù ở hoàn cảnh nào cũng được nhân dân bù trì khích lệ mà tồn tại và lớn dần đến ngày nay.

Con đường gần 5 thế kỷ từ chèo Thuyền bản đến chèo Kiều, hoặc có thể nói, từ trò nhà Phật (có thể gọi là chèo sân chùa?) chuyển sang chèo sân đình qua biết bao biến thiên văn hóa xã hội, cả chính trị, đã để lại cho đời cả một kho tàng nghệ thuật sân khấu dân tộc quý giá, đòi các thế hệ sau quan tâm bảo tồn, kế thừa, phát huy và phát triển.

Sự hình thành khuôn diễn cho từng loại nhân vật hay cho từng nhân vật cụ thể là cả một công trình nghệ thuật mang tính tập thể cao độ, trong đó, mỗi người mỗi góp vào, phần nhiều từ ứng diễn ứng tác truyền đời trên cơ sở bản trò. Vì thế hình tượng vai đóng đã hầu thành khuôn diễn chung trên đường nét cơ bản đòi kẻ đi sau phải cố gắng tuân thủ, nhất thể đối với số vai hay, vở diễn hay, đã được giới nghề coi là vốn cũ truyền thống.


Một cảnh trong vở Trương Viên

Chèo cải lương là một dạng chèo cách tân do Nguyễn Đình Nghi khởi xướng và theo đuổi để thực hiện từ đầu những năm 1920 đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, theo xu hướng phê phán tính ước lệ của chèo cổ. Chèo cải lương được soạn thành màn, lớp, bỏ múa và động tác cách điệu trong diễn xuất, xử lý những mô hình làn điệu chèo cổ, đưa nguyên những bài dân ca có sẵn vào bổ sung cho hát chèo. Bộ “Tám trận cười” của Nguyễn Đình Nghi gồm những vở nổi tiếng.

Chèo chải hê, còn gọi là chèo nhị thập tứ hiếu bắt nguồn từ nội dung diễn xướng: Là loại hình dân ca hát vào rằm tháng bảy hàng năm, hoặc trong đám tang, đám giỗ của người có tuổi thọ, có nguồn gốc từ việc kết nghĩa giữa 2 làng Vân Tương (Bắc Ninh) và Tam Sơn (Đông Anh, Hà Nội), gồm có các phần:

     1. Giáo roi  
     2. Nhị thập tứ hiếu
     3. Múa hát chèo thuyền cạn
     4. Múa hát kể thập ân.

Kết thúc chương trình hát chèo chải hê thường là hát quan họ.

Điều thú vị là chèo Chải Hê ban đầu nhằm diễn xướng trong các đám tang hiếu của người cao tuổi, về sau, nhu cầu giải trí, giao lưu văn nghệ càng lên cao, nó có thêm những bài hát chèo thuyền và hát huê tình tươi tắn, sinh động. Xưa kia, làng Lũng Giang có đến ba phường chèo Chải Hê tại ba xóm Chùng, Chinh, Đông, thường hát thi với nhau.

Đặc điểm của chèo Việt
Không giống tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý, chèo miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn. Khát vọng sống thanh bình giữa một xã hội phong kiến đầy bất công. nhiều vở chèo còn thể hiện cuộc sống vất vả của người phụ nữ sẵn sàng hy sinh bản thân vì người khác. Nội dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ tích, truyện Nôm; được nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc. Trong chèo, cái thiện luôn thắng cái ác, các sỹ tử tốt bụng, hiền lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì tiết nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng. Các tích trò chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm; ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân gian. Lối chèo thường diễn những việc vui cười, những thói xấu của người đời như các vai: Thầy mù, Hương câm, Đồ điếc, Quan Âm Thị Kính. Ngoài ra chèo còn thể hiện tính nhân đạo, như trong vở Trương Viên.

Chèo luôn gắn với chất “trữ tình”, thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, tình thương.

Nhân vật trong chèo

Vai Hề
Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập khuôn. Tính cách của các nhân vật trong chèo thường không thay đổi với chính vai diễn đó. Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất cứ vở nào, nên hầu như không có tên riêng. Có thể gọi họ là thầy đồ, phú ông, thừa tướng, thư sinh, hề v.v…Tuy nhiên, qua thời gian, một số nhân vật như Thiệt Thê, Thị Kính, Thị Mầu, Súy Vân đã thoát khỏi tính ước lệ đó và trở thành một nhân vật có cá tính riêng.

Diễn viên đóng chèo nói chung là những người không chuyên, hợp nhau trong những tổ chức văn nghệ dân gian gọi là phường chèo hay phường trò…”Hề” là một vai diễn thường có trong các vở diễn chèo. Anh hề được phép chế nhạo thoải mái cũng như những anh hề trong cung điện của vua chúa châu Âu. Các cảnh diễn có vai hề là nơi để cho người dân đả kích những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến hay kể cả vua quan, những người có quyền, có của trong làng xã. Có hai loại hề chính bao gồm: hề áo dài và hề áo ngắn.

Kỹ thuật kịch
Đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng, và có thể được biểu diễn ngẫu hứng. Sân khấu chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó. Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự, phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ và cách điệu. Ngôn ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố, hoặc những câu ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ.

Chèo không có cấu trúc cố định năm hồi một kịch như trong sân khấu châu Âu mà các nghệ sỹ tham gia diễn chèo thường ứng diễn. Do vậy, vở kịch kéo dài hay cắt ngắn tuỳ thuộc vào cảm hứng của người nghệ sỹ hay đòi hỏi của khán giả. Không giống các vở opera buộc các nghệ sỹ phải thuộc lòng từng lời và hát theo nhạc trưởng chỉ huy, nghệ sỹ chèo được phép tự do bẻ làn, nắn điệu để thể hiện cảm xúc của nhân vật. Số làn điệu chèo theo ước tính có khoảng trên 200.

Nhạc cụ
Chèo sử dụng tối thiểu là hai loại nhạc cụ dây là đàn nguyệt và đàn nhị, đồng thời thêm cả sáo nữa. Ngoài ra, các nhạc công còn sử dụng thêm trống và chũm chọe. Bộ gõ nếu đầy đủ thì có trống cái, trống con, trống cơm, thanh la, mõ. Trống con dùng để giữ nhịp cho hát, cho múa và đệm cho câu hát. Có câu nói  “phi trống bất thành chèo” chỉ vị trí quan trọng của chiếc trống trong đêm diễn chèo. Trong chèo hiện đại có sử dụng thêm các nhạc cụ khác để làm phong phú thêm phần đệm như đàn thập lục, đàn tam thập lục, đàn nguyệt, tiêu v.v…

Chèo hay là thế, độc đáo là thế, nhưng bộ môn nghệ thuật truyền thống này với đặc điểm hiện diện là biểu diễn – các trình thức múa hát xung quanh một thân trò, bởi thế cho nên, chèo được lưu truyền chủ yếu qua một trật tự hết sức tự nhiên: thày giáo già- con hát trẻ. Thế hệ nghệ sỹ sau nối tiếp thế hệ trước, giữ nghề bằng cách truyền nghề trực tiếp, bắt tay chỉ ngón, dạy từng cách diễn, cách hát. Phần kịch bản văn học của chèo cổ cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay với một vài bản nôm, gần hơn là một vài bản bằng chữ quốc ngữ in trong trời Pháp thuộc (nhưng những bản này lại không mấy chính xác so với những lớp diễn của các nghệ nhân!). Thực tế này là một khó khăn, thách thức lớn đối với công việc nghiên cứu, sưu tầm chèo cổ.

Từ năm 1959 đến năm 1964, Bộ văn hoá (nay là Bộ VH,TT&DL)  đã tổ chức các Hội nghị nghệ nhân. Mỗi đợt hội nghị diễn ra trong vòng từ một đến ba tháng. Tại đây, qua sự giới thiệu của các Ty Văn Hoá địa phương, các nghệ nhân chèo đã được mời đến với mục đích phục hồi các tiết mục chèo cổ.

Trong thời gian họp lại với nhau, các cụ nghệ nhân đã chia tổ, cùng nhau nhớ, ghim ghép các mảnh trò, trò diễn lại với nhau. Trong quá trình hội nghị, vốn liếng cá nhân đã dần dần đi tới thống nhất tương đối về mặt cấu trúc của các trò diễn. Từ những sáng tạo biểu diễn riêng biệt, mỗi chiếng diễn một khác, mỗi cụ diễn một khác đối với cùng một trò diễn hay vai diễn, các nghệ nhân đã gạn đục khơi trong, xây dựng những trích đoạn những vai diễn tiêu biểu, sau này chúng ta lấy đó làm mẫu.

Cho đến hôm nay, 7 vở chèo truyền thống được gìn giữ, bảo tồn đã cho thấy hành trình bảo tồn, sáng tạo nghệ thuật không chỉ tính bằng tháng năm thông thường mà phải được tính bằng đời nghệ sỹ, tính bằng những thăng trầm và lòng nhiệt huyết với nghề tổ. Các nghệ nhân được quy tụ, tập hợp, khuyến khích sáng tạo trong môi trường lao động nghệ thuật đúng hướng và thực chất sẽ mang lại hiệu quả lớn mà thời gian và công chúng thưởng thức nghệ thuật sẽ là thước đo đánh giá chính xác.

Trên đường phát triển của mình, chèo đã tiếp nhận nhiều nhân tố mới lạ cả về cấu trúc lẫn âm nhạc, múa, mỹ thuật… Những thủ pháp cấu trúc của kịch nói (gốc phương Tây) đã được du nhập vào chèo để phục vụ cho việc kể chuyện của chèo thêm hấp dẫn, nhưng đã được “chèo hóa”, hài hòa trong mạch kể. Những làn điệu dân ca các vùng, miền Trung, miền Nam, các dân tộc miền núi, thậm chí của cả nước khác trên thế giới cũng được “chèo hóa” đi cho phù hợp với phong cách của nó, phù hợp với “khẩu vị” của người dân quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam. Có thể nói, người Việt Nam đã hình thành nên một kiểu “Văn hóa chèo” bền vững và đầy sức sống (bao gồm Văn chèo, Nhạc chèo, Múa chèo, Mỹ thuật chèo và Cách diễn chèo). Nó không bị đồng hóa, mà còn có khả năng tự làm phong phú bằng cách đồng hóa các yếu tố ngoại nhập trên con đường phát triển của mình và luôn luôn đào thải những gì không phù hợp với nó. Cái chất dân dã mộc mạc, nhắn nhủ duyên dáng, hài hước đã tạo dựng lên cái xương cốt của chèo với phong vị riêng. Nó nghiêm chỉnh đấy nhưng cũng hài hước ngay được. Cái bi tưởng đến tột cùng nhưng lại xóa ngay được bằng cái hài ý vị, thoắt hư thoắt thực, có lúc nhân cái phi lí để làm rõ cái có lý, cứ thế dẫn người xem vào một cuộc hành trình đầy bất ngờ và thú vị.

Trải qua trăm năm thời gian, con người đất Việt đã tạo nên xung quanh tâm hồn mình một cơ tầng văn hoá với những vỉa trầm tích quý giá, đó chính là hàng trăm, hàng nghìn câu ca dao, tục ngữ, dân ca, điệu hò… và nghệ thuật chèo truyền thống. Chúng ta có thể tự tin để nói với nhau rằng- qua hệ thống các nhân vật tạo nên các tích trò lý thú, nghệ thuật chèo đã mang lại cho con người Việt Nam truyền thống sự thanh lọc tâm hồn.

Về Duệ Đông nghe câu quan họ cổ

Một canh hát quan họ truyền thống tại làng Duệ Đông, thị trấn Lim, huyện Tiên Du (Bắc Ninh).

Một canh hát quan họ truyền thống tại làng Duệ Đông, thị trấn Lim, huyện Tiên Du (Bắc Ninh).

Hương thơm man mác của những bông hoa bưởi vào mùa và mưa xuân phơi phới bay dường như là thứ gia vị làm cho những câu hát quan họ thêm đậm đà. Dù bận rộn với công việc thường ngày, nhưng những liền anh, liền chị của làng quan họ Duệ Đông, thị trấn Lim, huyện Tiên Du (Bắc Ninh) vẫn thu xếp để tổ chức các canh hát quan họ truyền thống mộc mạc, đúng lề lối như mọi năm. Và dù không diễn ra thâu đêm suốt sáng “ca cho tàn canh, mãn võ, cho tàn đêm rạng ngày”, nhưng đã phần nào làm thỏa niềm mong mỏi của “người chơi” và nhất là những ai đã trót mê đắm quan họ.

“Nghề chơi” lắm công phu

Bà Nguyễn Thị Bình năm nay ngoài 70 tuổi, một mình từ huyện Đông Anh, Hà Nội, tìm về làng Duệ Đông. Nơi đây bà đã sinh ra và lớn lên, giờ đi lấy chồng xa, mỗi năm cứ vào dịp đầu Xuân, bà Bình lại nhớ nhung những câu hát quan họ mình đã được nghe thuở trước, nhớ nhung những canh hát quan họ truyền thống mà tìm về. Bà Bình kể rằng: Ở Hội Lim trên đồi đông quá không chen được, chỉ có tìm vào làng nghe hát canh như thế này mới thỏa nhớ nhung. Ngày trước, thuở 15, 16 tuổi, bà đã sang ông Đắc, ông Chùa (thế hệ cao tuổi chơi quan họ của làng Duệ Đông) học hát. Lúc đó còn trẻ, chưa thấm câu quan họ, thế nào lại chuyển sang học dân ca. Để đến bây giờ cứ tiếc mãi.

Các cụ cao niên của làng Duệ Đông khẳng định rằng, quan họ cổ hát đã khó lại kén người nghe, phải là những người thật sự đam mê, có lòng yêu quan họ say đắm thì mới nghe và cảm được nó. Thế mà đã gần 20 năm nay, ông Đặng Thọ Tường sống tại TP Hải Phòng chưa bỏ nghe một canh hát quan họ truyền thống nào của làng Duệ Đông. Không giống bà Bình, ông là khán giả nhiệt thành của canh hát nhiều năm như vậy vì ông yêu lối sống giản dị, quý bạn, quý khách của những liền anh, liền chị làng Duệ Đông. Khi đến với họ, ông cảm thấy gần gũi như thể trở về nơi thân thiết của mình. Ông đặc biệt yêu thích dân ca miền bắc, mà trong đó mê nhất là những câu quan họ, nhất là quan họ cổ. Vì yêu thích và mong nhiều người yêu thích như mình, năm nào ông cũng tới làng Duệ Đông thật sớm, ngồi chăm chú lắng nghe và ghi lại canh hát cổ bằng chiếc máy quay nhỏ. Hỏi ra mới biết, mặc dù những câu hát và canh hát năm nào cũng vậy, thế mà ông Tường chưa một lần bỏ canh hát quan họ cổ vào dịp đầu Xuân hằng năm của làng Duệ Đông trong suốt nhiều năm qua.

Trong ngôi nhà nhỏ của bà Nguyễn Kim Thanh – Chủ nhiệm Câu lạc bộ Quan họ thôn Duệ Đông, canh hát quan họ cổ được phục dựng lại với đầy đủ lề lối. Bọn quan họ (cách gọi truyền thống về những người chơi quan họ) nam ngồi đối diện với bọn quan họ nữ, ở giữa chiếu là những cơi trầu têm cánh phượng và chén trà thơm. Bên nữ ra câu “Mong người như cá mong mưa”, bên nam đối “Nhẽ ra em cũng ở nhà”; bên nữ ra câu “Nhớ ai nhớ mãi thế này”, bên nam đối câu “Ông tơ hồng ơi”… Không nhạc đệm, không loa máy, hàng trăm câu quan họ mộc mạc trữ tình vang lên giữa không gian trầm mặc, tĩnh lặng. Một canh hát quan họ thường diễn ra từ sẩm tối hôm trước cho đến hai, ba giờ sáng hôm sau, được chia thành ba chặng. Đầu tiên là hát giọng lề lối như La rằng, Tình tang, Bạn kim lan, Cái ả… những giọng này đòi hỏi người ca phải chậm rãi, đúng chất “vang, rền, nền, nảy”. Chặng giữa hát các bài thuộc giọng lẻ, giọng vặt như Khách đến chơi nhà, Tay em nâng cái cơi đựng giầu, Em là con gái Bắc Ninh, Tiên sa xuống cõi trần chơi… không phải theo trình tự bắt buộc như chặng đầu, cho nên các anh Hai, chị Hai càng hát, càng say, kể về niềm thương, nỗi nhớ về tình yêu, tình người… Chặng cuối thường vào lúc hai, ba giờ sáng, cả chủ và khách đều lưu luyến, bịn rịn, cho nên thường ca những câu giã bạn như Chuông vàng gác cửa tam quan, Người ơi người ở đừng về, Chia rẽ đôi nơi, Kẻ bắc, người nam…

“Nghĩa người em để trong cơi/ Nắp vàng đậy lại để nơi giường nằm”, trong văn hóa quan họ, tình người và phong cách ứng xử khiêm nhường, lịch lãm giữa các liền anh, liền chị cũng là một vẻ đẹp nổi bật. Người quan họ bình đẳng, luôn quý trọng, tôn kính nhau. Điều này biểu hiện không chỉ trong các ca từ, bài bản quan họ mà còn trong giao tiếp. Bao giờ người quan họ cũng xưng “em” hoặc “chúng em” và gọi bạn là “anh” hoặc “chị” cho dù ít tuổi hay nhiều tuổi hơn và thậm chí là tài năng “chơi quan họ” không bằng. Các cụ bảo “Nghề chơi của chúng em công phu lắm nên muốn chơi được quan họ đòi hỏi nhiều tâm sức và thật kỳ công”.

Hàng trăm câu hát và cách giao tiếp trong canh hát quan họ cổ không được ghi chép trong bất cứ tư liệu nào, cách duy nhất là học từ các nghệ nhân cao tuổi. Ở làng Duệ Đông có nghệ nhân Nguyễn Thừa Kế năm nay 100 tuổi và nghệ nhân Nguyễn Văn Đắc năm nay 96 tuổi luôn là người giữ lửa, thuần thục về các kỹ năng hát quan họ và tâm huyết trong việc gìn giữ và phát huy những làn điệu quan họ cho thế hệ trẻ. Tuổi đã cao như vậy, nhưng ông Đắc vẫn tự dò đường trong con ngõ tối của làng sang nhà bà Thanh, một trong những học trò của ông, để tham gia canh hát như một thói quen không thể bỏ từ năm này sang năm khác. Vừa hát vừa nghe các học trò hát, ông Đắc gật gù với nét mặt mừng vui về một thế hệ sau đã tiếp nối được những gì ông mong muốn. Ông kể lại về những canh hát xưa: “Bây giờ các cô, các chị hát quan họ đã cải biên nhiều, nhưng lối hát cổ thì không thể cải đi được. Ngồi như thế này là hát canh, bên anh Hai, chị Hai ngồi hát đối nhau thế, tình cảm nó mới nhiều. Cất lên câu hát là biết ngay”.

Nơi trao truyền các giá trị truyền thống

Năm 1992, Câu lạc bộ quan họ làng Duệ Đông chính thức được thành lập mà nghệ nhân Nguyễn Thừa Kế và nghệ nhân Nguyễn Văn Đắc là hạt nhân chính. Với suy nghĩ, ngày xưa các cụ đã dạy mình gì thì mình truyền dạy cho con cháu cái đó, cụ Kế và cụ Đắc dành hết tâm huyết để truyền dạy quan họ. Năm nay, khi cụ Kế đã tuổi cao sức yếu, cụ Đắc vẫn miệt mài truyền nghề. Mỗi thứ bảy hằng tuần, chẳng kể trời mưa hay nắng, lớp học chưa khi nào vắng bóng người thầy già. Sau khi giao bài, hát mẫu cho những người trong câu lạc bộ quan họ, cụ lại dành ra một buổi, kiểm tra, uốn nắn từng lời ca, giọng ngân… của “học viên”. Khi lớp học trò của cụ đạt được đến giọng chuẩn, theo tiêu chí vang, rền, nền, nảy của người quan họ, thầy giao nhiệm vụ cho các thành viên tiếp tục truyền dạy cho các lớp kế cận.

Bà Nguyễn Kim Thanh, hiện là Chủ nhiệm Câu lạc bộ đã lớn lên với những canh hát quan họ cổ bởi đây là truyền thống gia đình. Cách đây 26 năm, bà Thanh quyết định nghiên cứu chuyên sâu về quan họ, cho nên đi theo hai thầy Nguyễn Thừa Kế và Nguyễn Văn Đắc để học hỏi. Bà nhớ lại: “Năm 1992 thành lập, Câu lạc bộ quan họ chỉ có 14 người theo học, sinh hoạt tại đình làng cũ. Những ngày đầu hoạt động, câu lạc bộ còn nhiều khó khăn, vất vả, trang phục biểu diễn không có; nơi sinh hoạt không được khang trang, ổn định; những người chưa học hát bao giờ còn lúng túng, vụng về, sinh hoạt chưa đều đặn…

Thế nhưng, vượt qua tất cả khó khăn, đến nay, Câu lạc bộ quan họ Duệ Đông đã phát triển ổn định, ai cũng có thể hát hay, hát giỏi như những nghệ nhân quan họ thực thụ”.

Hiện, Câu lạc bộ quan họ Duệ Đông có hơn 40 thành viên, sinh hoạt với các lớp thế hệ khác nhau. Người lớn tuổi nhất là nghệ nhân Nguyễn Thừa Kế và nghệ nhân Nguyễn Văn Đắc. Cùng sinh hoạt tại Câu lạc bộ với các liền anh, liền chị trung niên là các cháu thiếu nhi, học sinh các lứa tuổi. Các nghệ nhân quan họ lớn tuổi truyền lại tình yêu và kỹ năng hát cho thế hệ trung niên như bà Nguyễn Kim Thanh, rồi bà lại tiếp tục truyền lại cho con cháu trong nhà, trong câu lạc bộ.

Những liền anh, liền chị làng Duệ Đông đã và đang gắn bó với quan họ bằng tình yêu, lòng đam mê với ý thức về một trọng trách gìn giữ, trao truyền các làn điệu truyền thống cha ông để lại. Đó là lý do mà các canh hát quan họ cổ ở làng Duệ Đông vẫn còn duy trì đến ngày hôm nay và hy vọng sẽ được nhân rộng hơn nữa trong tương lai.

Nguồn: Ái Kiều báo nhân dân

Ngày xuân nghe hát ca trù

 Ngày xuân nghe hát ca trù, càng hiểu sự yêu người, yêu đời và sự tinh tế của người hôm qua và hôm nay. Hát ca trù ở tỉnh Thanh còn được gọi là hát cửa đình, hát ca công thấm đậm tính nhân bản và không kém phần cao siêu.

Ngày xuân, mỗi khi giọng ca trù cất lên bay bổng thiết tha hòa với tiếng trống “chát”, “tom” xen tiếng phách rộn ràng lúc khoan, lúc nhặt, tiếng đàn sâu lắng quyện hoà vào lời ca vang xa da diết ân tình tạo thành chuỗi âm thanh trầm ấm, lắng sâu,.. khiến lòng ta xúc động bồi hồi, nhớ về cội nguồn, nhớ về miền ký ức, đánh thức nỗi niềm sâu thẳm của trái tim mình với những gương mặt “hiền như đất” và làng quê yêu dấu có giếng nước, cây đa, mái đình cổ kính.

Hát ca trù ở Thanh Hoá có từ thời nào không rõ, chỉ biết rằng xứ Thanh là đất quý hương của nhà Lê, đã sinh ra vị vua sáng Lê Thánh Tông. Vị vua văn võ toàn tài, thơ văn trác việt. Người đứng đầu hội “Tao đàn nhị thập bát tú” đã chế ra khúc Hà nam trong âm luật Hồng Đức, sau này là giai điệu của hát nói vừa mang sắc thái hoang sơ, huyền bí như là Thiết nhạc, một bản thể lâu đời của ca trù, vừa phóng khoáng linh động, lại đài các cao sang.

Truyền thuyết về cây đàn đáy và hát ca trù còn lưu lại trong ký ức dân gian xứ Thanh này: Có một người thư sinh tên là Đinh Lễ tình cờ gặp hai tiên ông trong rừng thông nơi chàng thường đến uồng rượu ngâm thơ. Một ông tiên cho chàng miếng gỗ ngô đồng, một ông lại cho chàng hình vẽ một cây đàn và bảo Đinh Lễ tìm người đóng theo mẫu ấy rồi dùng đàn để giúp đời. Ai đang buồn nghe tiếng đàn liền tiêu tan sầu muộn, ai đau ốm nghe tiếng đàn thấy tâm hồn thư thái và khỏe mạnh.

Đinh Lễ vâng lời, chàng cho đóng đàn theo như hình mẫu và quả nhiên tiếng đàn như lời hai ông tiên.

Một hôm Đinh Lễ ngao du đến châu Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá nay và gặp quan châu ở nơi đây có một cô gái xinh đẹp tên là Bạch Hoa. Khi lên mười bỗng nhiên mắc bệnh nặng và bị câm. Sang tuổi 19 nhan sắc của cô khiến nhiều chàng trai mê mẩn, nhưng có điều buồn là cô vẫn không nói không cười khiến quan châu buồn lắm.

Rồi cái ngày mà Đinh Lễ đến châu Thường Xuân ấy và với cây đàn huyền diệu của chàng, tiếng lành đã đồn đến khắp bản dưới, mường trên. Dân chúng liền báo cho quân châu biết Đinh Lễ có cây đàn mầu nhiệm, quan Châu bèn cho mời chàng về dinh. Thi lễ xong, Đinh Lễ so dây đàn rồi dạo lên mấy khúc, tức thì nàng Bạch Hoa tiểu thư đang ngồi ăn cơm trong rèm nghe tiếng đàn réo rắt, tâm tình bèn bỏ bát cơm, rồi lấy hai chiếc đũa gõ lên bàn theo nhịp đàn và bỗng nhiên bật lên tiếng nói: “Tiếng đàn hay quá” từ lúc ấy nàng Bạch Hoa lại nói cười được như những ngày nào.

Vợ chồng quan châu mừng lắm liền gả con gái quý cho Đinh Lễ. Trong ngày thành hôn của họ Đinh Lễ soạn khúc “Loan phụng hoà mình, lời ca tiếng đàn ngân lên làm cho mọi người hết lời khen ngợi. Khúc ca ấy được truyền tụng mãi đến mai sau.

Để nhớ lúc nàng Bạch Hoa nghe tiếng đàn hay đã lấy hai chiếc đũa gõ nhịp hoà âm với lời ca bay bổng, ngày nay hát ca trù vừa hát, phải vừa gõ phách bằng hai dùi trên lá phách.

Hát ca trù cũng lắm công phu và có các lễ tục phải kiêng kỵ tên bậc tổ trong phường. Như truyền thuyết kể trên, người được các vị tiên truyền cho cách đóng đàn đáy là Đinh Lễ, vì vậy chữ “lễ” phải đọc chệch đi là “lỡi”. Nàng Bạch Hoa phải đọc chữ “bạch” thành “biệc”, “hoa” đọc ra là “huê…”

Giáo phường ca trù có phong tục thờ thầy. Học trò theo nghề ca hát mỗi lần hát đình đám phải trích một phần tiền hát góp với phường để cung dưỡng thầy gọi là tiền đầu.

Hàng năm vào ngày 11 tháng chạp, giáo phường có tục lễ tổ làm lễ tế Bạch Hoa công chúa. Có tục “mở xiêm áo”. Khi một người học biết cầm lá phách, biết hát các loại làn điệu, khúc thức, bài hát một cách căn bản thì xin phép được làm lễ trình. Những người am hiểu nghề trong giáo phường tụ họp lại, sát hạch người học trong một buổi, nếu trả lời thông suốt, giọng ca hoà nhập với tiếng đàn lời phách, trống chầu, thể hiện được cái thần của ca từ… thì được phép chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ Cao tổ, rồi mời quan viên có danh vọng, am hiểu ca trù tới nghe và cầm trống cho buổi hát đầu tiên gọi là “Lễ mở xiêm áo”.

Ca trù ngày xuân

Trong các làng quê xứ Thanh từ xa xưa và cho tới trước những năm 1960 của thế kỷ XX vẫn còn nhiều nơi hát ca trù – hát cửa đình. Hát cửa đình ở Thanh Hoá được hát vào dịp tế thờ Thành hoàng làng, không tham gia vào việc tế thần mà chủ yếu là hát vui trong dịp thờ thần, hát ở nơi hội hè, mừng thọ, tiệc vui, đôi khi những người hát, người đàn lại đàn hát cho nhau nghe.

Hát ca trù có ở các làng quê như Vệ Yên – Quảng Thắng (Thành phố Thanh Hoá), Hoa Trai (Tĩnh Gia), Xá Lê, Thuần Hậu – Xuân Minh, Bàn Thạch – Xuân Quang (Thọ Xuân), Bái Thủy – Định Liên (Yên Định), Hoằng Phú, Hoằng Trạch, Hoằng Phong (Hoằng Hoá). Ở Ngọc Trung – Xuân Minh (Thọ xuân) còn có đền thờ tổ sư nghề ca công. Ở Đồng Lạc (Hoằng Trạch, Hoằng Hoá) thờ bà Chúa Trắng – là cô gái đẹp hát hay, bà đã dạy hát cho dân và trở thành một nghề truyền thống. Ngôi đình là nơi tổ chức hát, hôm nào bà hát người đứng nghe chật ních. Bà được nhà vua khen và thưởng rất hậu. Giữa hát ca công, cửa đình tỉnh Thanh với ca trù Cổ Đạm (Hà Tĩnh), Lỗ Khê (Đông Anh – Hà Nội) có sự giao tiếp và ảnh hưởng lẫn nhau. Ca trù Lỗ Khê có nguồn gốc từ Thanh Hoá. Người đưa ca trù xứ Thanh ra đất Thăng Long không ai khác chính là Đinh Triết là con trai Đinh Lễ. Chàng trai họ Đinh đã đưa ca trù ra Lỗ Khê và khi mất đã được tôn là tổ nghề ở đây.

Vậy ca trù là gì? Ca là câu hát ngân lên thành khúc điệu. Trù là một cái thẻ ghi chữ đánh dấu để thưởng cho người hát hay. Khi người hát, hát đoạn nào hay, luyến láy ca từ khéo, người nghe hát cảm phục, bỏ một, hai hay nhiều thẻ tre vào hộp.

Người ta thống kê ca trù có trên 80 làn điệu và đến những năm 1930 vẫn còn 44 làn điệu lưu truyền trong nhân dân. Giọng hát ca trù thường lấy nguyên âm “ư”, nguyên âm êm dịu, trầm ấm lan xa làm nền.

Cách hát ca trù ở tỉnh Thanh cũng đơn giản. Trước cửa đình, trên một cái chiếu trải rộng, người hát vừa hát vừa gõ phách, có nhạc cụ đệm. Một ban hát chỉ 3 người là đủ. Người xem lễ xong đứng vòng trong, vòng ngoài mà xem hát.

Hát ca trù phải do người hát có giọng khoẻ, trầm và sang. Người hát gọi là “đào nương”, và sau này là “cô đầu”.

Trong hát ca trù, nhạc đệm cho người hát là chiếc đàn đáy, trống chầu và phách. Đàn đáy là loại nhạc cụ dân tộc rất hợp với hát ca trù. Thùng đàn là hộp gỗ hình chữ nhật, ba dây đàn là những sợi tơ: dây hàng (dây to) dây trung và dây tiếu (dây nhỏ). Cần đàn cao vút dài hơn 1 mét, mười cung đều tăm tắp. Cây đàn này phát ra âm sắc trầm đục, sâu lắng, đầy chất suy tư.

Cùng với cây đàn đáy và người chơi đàn giữ vai trò chủ đạo trong hát ca trù. Nhạc cụ trông chầu với âm sắc “tom”, “chát” do chiếc roi hay dùi trống gõ vào mặt, tang trống tạo ra nâng cho tiếng đàn lời ca, tiếng phách nhấn, láy và dừng, ngắt chính xác, không lỗi nhịp. Roi trống phải nằm ngang mặt trống. Cách ngồi, tay vịn trống, tay cầm roi trống phải đúng phong cách. Trống thường đánh ba tiếng để gọi, hoặc đánh khổ trống Thôi cổ, hai tiếng trống khoan thai để giục đào kép. Trong lúc hát, có nhiều khổ trống dùng để khen giọng hát, khen tiếng đàn mang tên “Song châu”, “Lưu châu”, “Xuyên tâm”, “Thượng mã”, “Phi nhạn”…

Phách là một nhạc cụ gõ làm bằng gỗ hoặc một mảnh tre khô, già được đẽo gọt, chuốt vuốt kỹ và một dùi tròn và một dùi chẻ làm hai gập lại. Gõ phách do ca công-người hát điều khiển. Gõ dùi chẻ xuống phách gọi là “lá phách”, gõ dùi tròn xuống phách gọi là “tay ba”, gõ phách một tay thấp, một tay cao, một tiếng nhẹ, một tiếng mạnh, một tiếng đục, một tiếng trong, hai tiếng cùng đánh một lúc gọi là “chác”. Trong hát ca trù phách là linh hồn của cả canh hát cùng hoà nhịp với lời ca, tiếng đàn, tiếng trống.

Người hát ca trù ngoài chất giọng trời phú cho, ngay từ bé và cho mãi tới sau này họ phải thường xuyên tập luyện để giữ được “hơi trong”, buông được “hơi ngoài”. Trong nghệ thuật nhấn, nhả khi lời ca cất lên, người nghe tưởng như gần, như xa, như cao, như thấp, khi khoan, khi nhặt rồi hút hồn trong lời ca, tiếng nhạc.

Thông thường có hai cách hát, hát khuôn và hát bay bướm. Hát khuôn theo lề lối “tròn vành rõ chữ”, mối chữ phải uốn nắn công phu, phải có dư âm, biết cách “đổ hột” tức là ngân ngắt đoạn nghe như tiếng hạt châu rơi trên mâm, phải gằn lấy hơi từ cổ họng chứ không phải từ lồng ngực. Đổ hột thật nhuyễn gọi là “đổ con kiến”. Hát bay bướm gọi là “hát hàng hoa”.

Thang âm ca trù rất gần với cấu trúc thang âm của hát ru trong dân gian, thang âm của ca trù là son, la, đô, rê, mi. Về điệu thức, ca trù có 6 cung: cung Huỳnh, cung Bắc, cung Nam, cung Pha, cung Nao và cung Phú. Đặc biệt nghệ thuật cấu tạo, chuyển tiếp khéo léo đến mức không làm người nghe bị xốc hay ngang tai mà một cảm giác rất lạ cứ thấm dần vào tâm trí, linh thiêng huyền bí, bay bổng lâng lâng hay man mát buồn thương.

Thời gian trôi qua, có lúc ca trù rơi vào quên lãng, những nghệ nhân ca trù âm thầm nhớ tiếc và hoài niệm… Song, cùng với sự đổi mới của đất nước, quê hương cùng với những giá trị văn hoá cổ truyền được khơi dậy, gìn giữ, phát huy. Ca trù lại trở về với cuộc sống đời thường của nó. Các canh hát ca trù lại được ngân lên trên quê hương Đinh Lễ, Bạch Hoa, từ châu Thường   núi biếc non xanh cho đến đôi bờ sông Chu, sông Mã và về với biển nơi thờ bà Chúa Trắng-sóng vỗ mênh mang, dạt dào con nước đầy vơi cùng năm tháng. Lời ca tiếng phách ấy lại còn vang lên trên đất Hà thành, góp lời ca của quê Thanh cùng với Bích Câu đạo quán – câu lạc bộ ca trù mãi bay xa.

Mùa xuân và trong các tháng giêng, hai, đến làng quê nào trên đất tỉnh Thanh cũng ít nhiều bắt gặp những lời ca bay bổng của các nghệ nhân ca trù xứ Thanh được tổ chức. Những người hát ca trù có tiếng ở tỉnh Thanh được nhiều người biết đến như cụ Diệm (Hậu Lộc), cụ Kim (Nông Cống) thật hiếm…

Ca trù với những lời ca được chắt lọc từ thơ, phú là những bài ca hay như: Gửi thư, Sa mạc, Bồng mạc,Tỳ bà hành, Thiết nhạc… lại được giọng hát như có nhiệm mầu, tiếng đàn lão luyện, tay trống hào hoa được chấp cánh bay lên thấm đẫm nghĩa nhân, đầy chất thơ, cao sang, hư thực… tất cả hoà vào nhau lôi cuốn người nghe trong âm điệu mê say như là ma lực.

Người chơi đàn cũng là người truyền dạy cho lớp trẻ trong canh hát ca trù hôm nay là Nghệ nhân ưu tú Ngô Trọng Bình đã ngoài 80 tuổi. Ngay từ nhỏ, cụ đã say đàn và những canh hát cửa đình. Cha của cụ là người chơi đàn có tiếng. Cây đàn đáy cụ đang gẩy là cây đàn thờ của dòng họ ở Nông Cống đã “tìm mặt gửi vàng” trao lại, cụ coi đó như báu vật. Ngón đàn của người nghệ sĩ già thật tài hoa, buông bắt hoà với trống phách và lời ca làm chúng ta cảm phục.

Chiếc trống chầu của các nghệ nhân dân gian được sử dụng thật tài nghệ và điêu luyện, luôn ăn nhịp với tiếng đàn, tiếng phách, giọng ca. Roi trống trong tay người nghệ sĩ luôn múa tít, lúc điểm lên mặt trống, lúc gõ xuống tang tạo nên chuỗi âm thanh lay động hồn người.

Ca trù là một nền âm nhạc bác học nhiều khách nước ngoài và các nhà nghiên cứu âm nhạc đã khẳng định và được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Ca trù là một loại âm nhạc độc đáo, chỉ cần ba diễn viên mà thể hiện được nét nhạc, điệu thức, tiết tấu của bài bản, lại có cách hát, cách đàn, cách gõ phách rất đặc biệt, khiến cho người nghe, người xem ngưỡng vọng, say mê có khi thức suốt đêm thâu, thời gian như ngừng trôi, đọng trong canh hát.

Ngày xuân nghe hát ca trù, ta như được chứng kiến điệu hồn của cha ông từ xưa vọng lại. Tiếng hát mượt mà, lảnh lót, tình tứ mà đắm say hoà với tiếng phách phát ra từ thanh tre những chuỗi âm thanh chắc gọn, cùng với tiếng đàn lay động tâm can, tiếng trống chầu giữ nhịp… tất cả bừng lên chan chứa ân tình. Bảo tồn và phát huy ca trù – nét đẹp  độc đáo của văn hoá cổ truyền xứ Thanh mãi bay bổng, tỏa lan, ngấm vào mạch đất, thấm vào lòng người  hôm qua, hôm nay và mãi muôn sau.

Nguồn: Hoàng Minh Tường Văn hóa và đời sống

Một thế kỷ sân khấu cải lương: Tôn vinh Thầy Ba Đợi

Thầy Ba Đợi là tên vở cải lương sẽ lên sàn diễn nhân kỷ niệm một thế kỷ ra đời sân khấu cải lương.

Vở do Nhà hát cải lương Việt Nam và Nhà hát cải lương Trần Hữu Trang phối hợp thực hiện, quy tụ đến 60 diễn viên cả hai miền. Đồng đạo diễn vở Thầy Ba Đợi là NSƯT Triệu Trung Kiên – phó giám đốc Nhà hát cải lương Việt Nam, cũng là người khởi xướng thực hiện chương trình.

 

Nhân vật thầy Ba Đợi sẽ do 4 nghệ sĩ thể hiện: NSƯT Xuân Vinh – giám đốc Nhà hát cải lương Việt Nam, NSƯT Thanh Tuấn, NSƯT Lê Tứ và Quang Khải. – Ảnh: GIA TIẾN, LINH ĐOAN, NVCC 

Vừa vào Sài Gòn trong hành trình “du Nam” hai tháng để chỉ đạo thực hiện vở diễn, anh có cuộc trò chuyện với Tuổi Trẻ.
– Tôi cùng tác giả kịch bản đã ấp ủ ý tưởng về vở diễn hơn một năm nay. Là người hoạt động trong lĩnh vực cải lương, tôi luôn mong muốn làm chương trình gì đó ý nghĩa nhân kỷ niệm một thế kỷ sân khấu cải lương ra đời.
Rất may tôi đã được sự ủng hộ của NSND Trần Ngọc Giàu (chỉ đạo nghệ thuật), soạn giả Hoàng Song Việt (trưởng ban tổ chức). Có nhiều vị tiền bối có công trong việc hình thành nên bộ môn nghệ thuật độc đáo này.
Tuy nhiên thầy Ba Đợi (tên thường gọi của nhạc sư Nguyễn Quang Đại) đóng vai trò quan trọng nhất. Có thể nói không có nhạc sư Nguyễn Quang Đại có thể đã không có sân khấu cải lương. Một người có công trạng như thế nhưng các thế hệ hậu sinh vẫn còn ít người biết về ông.
Tìm kiếm mọi tư liệu về nhạc sư Nguyễn Quang Đại
* Vở diễn lần này quy tụ diễn viên cả hai miền Nam – Bắc. Anh có cảm thấy áp lực?
– Khi chưa vào đây tôi khá lo lắng, nhiều lúc thấy hoảng. Tuy nhiên, hiện tại có vẻ ổn vì anh em nghệ sĩ trong này ủng hộ rất nhiệt tình.
Mọi người nói sân khấu cải lương trong này đang có rất nhiều khó khăn, nên anh em rất vui và sẵn sàng đón nhận, khuyến khích những dự án hay, tốt dành cho cải lương.
Về diễn viên, phía Bắc có NSND Vương Hà, NSND Hoàng Đạt, NSƯT Xuân Vinh… Phía Nam có NSƯT Thanh Tuấn, NSƯT Hùng Minh, NSƯT Quế Trân…
Hiện tại chúng tôi thuê một căn chung cư ở đường Võ Văn Kiệt (Q.1) để anh em phía Bắc vào có nơi nghỉ, đây cũng là nơi các nghệ sĩ tập luyện trước khi đưa êkip ra ráp với sân khấu. Như vậy anh em nghệ sĩ sẽ có khoảng 1 tháng rưỡi tập luyện vở diễn.
* Tư liệu về nhạc sĩ Ba Đợi còn rất ít, anh có gặp khó khăn trong quá trình xây dựng kịch bản?
– Tôi và tác giả kịch bản từng về đình Vạn Phước (Long An) – nơi đặt bài vị của nhạc sư Nguyễn Quang Đại – để tìm hiểu nhưng tiếc là không có nhiều tư liệu.
Tôi tìm đọc khá nhiều và nhờ anh em trong giới, trong đó có nhạc sĩ Tám Kỳ, thạc sĩ Huỳnh Khải, ai có tài liệu hay nhờ hỗ trợ, vì vậy trong kịch bản này gần như những tư liệu nào có được về ông chúng tôi đều tận dụng hết. Bên cạnh tư liệu, chúng tôi có sử dụng thủ pháp hư cấu nghệ thuật.
PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ là tác giả kịch bản Thầy Ba Đợi sau một số kịch bản anh đã viết cho nhà hát chúng tôi như Chuyện tình Khau Vai, Mai Hắc Đế, Hừng đông…
Anh viết cảnh nào xong là chúng tôi chuyển ngay cho anh Hoàng Song Việt và anh Phạm Văn Đằng chuyển thể cải lương. Anh Việt là soạn giả phía Nam giàu kinh nghiệm, nên đã góp phần làm kịch bản thêm đậm đà màu sắc văn hóa vùng miền Nam Bộ.
Tiếp tục các dự án tập trung nghệ sĩ hai miền
* Sau một loạt vở diễn có sự tham gia của xã hội hóa như Chuyện tình Khau Vai, Mai Hắc Đế, Vua Phật, Hừng đông, Ni sư Hương Tràng…, các anh có tiếp tục “cả gan” thực hiện xã hội hóa 100% với vở Thầy Ba Đợi?
– Nói thật đến giờ này chúng tôi vẫn chưa vận động đủ kinh phí để thực hiện. Chúng tôi sẽ cố gắng hạn chế chi phí để không quá làm phiền các nhà tài trợ.
Khát vọng của chúng tôi trong tương lai còn muốn tiếp tục “bén rễ” ở thị trường nhiều cơ hội nhưng cũng muôn vàn thách thức ở phía Nam. Anh em chúng tôi dự định tiếp tục thực hiện chương trình tập trung nghệ sĩ Bắc – Nam như thế.
Tôi cho rằng con đường tháo gỡ khó khăn cho cải lương vẫn là xã hội hóa. Ngoài Bắc gần như không có thị trường nghệ thuật, trong khi miền Nam lại có.
Cần lắm những mạnh thường quân nâng đỡ bước đầu cho những dự án tâm huyết của chúng tôi. Khi chúng tôi vượt qua khó khăn và tạo niềm tin cho khán giả về một sân khấu cải lương đã được đổi mới, khi ấy chúng tôi sẽ đi bằng chính đôi chân mình.
Về lâu dài chúng tôi mong muốn hoạt động này sẽ dành cho việc thử nghiệm những yếu tố mới. Cái mới đó không hẳn phải là những gì to tát, mà trước tiên là loại bỏ những nhược điểm khiến một số khán giả hôm nay không mặn mà với nghệ thuật cải lương.
Điều quan trọng là phải xóa bỏ được những định kiến, sự cực đoan từng làm cải lương đã khó, nay còn khó hơn.
Hãy chấp nhận cho những thử nghiệm đua nhau nở rộ. Tồn tại được hay không sẽ giống như quá trình chọn lọc tự nhiên.
4 nghệ sĩ vào vai thầy Ba Đợi
 
Vở cải lương Thầy Ba Đợi (đạo diễn: NSƯT Triệu Trung Kiên – Lê Trung Thảo) là câu chuyện về nhạc sư Nguyễn Quang Đại (1855 – không rõ năm mất).
 
Khi vua Hàm Nghi bị Pháp đày sang châu Phi, ông Đợi hưởng ứng chiếu Cần Vương vào Nam Kỳ chống Pháp, mang theo di sản quý báu là nhã nhạc cung đình Huế.
 
Trong quá trình lưu lạc, ông từng bước “dân dã hóa” âm nhạc cung đình Huế, kết hợp với dân ca Nam Bộ, vừa sáng tác vừa cải biên và hệ thống hóa để tạo thành âm nhạc tài tử được lưu giữ trong đời sống người dân Nam Bộ cho đến tận bây giờ.
 
Vở sẽ diễn vào hai đêm 28 và 29-4 tại nhà hát Bến Thành, một đêm tại tỉnh Long An, nơi đặt bài vị nhạc sư Nguyễn Quang Đại, và có thể ở một số tỉnh thành phía Bắc. Các đêm diễn không bán vé.
 

Ngày 28-4, một cuộc tọa đàm khoa học với chủ đề Một thế kỷ sân khấu cải lương Việt Nam cũng sẽ được Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương tổ chức tại TP.HCM. 

Nguồn: Linh Đoan / tuoitre.vn

Chung kết Hội thi Giọng ca cải lương Bông lúa vàng 2017

Chiều 30-12, tại Nhà hát VOH, Đài Tiếng nói nhân dân TPHCM tổ chức vòng chung kết Hội thi Giọng ca cải lương Bông lúa vàng lần thứ 12 – 2017.

Chung kết Hội thi Giọng ca cải lương Bông lúa vàng 2017

Năm nay có hơn 200 thí sinh tham gia vòng sơ tuyển. Hội đồng giám khảo đã chọn 60 thí sinh có tố chất, tiềm năng để cùng thi tài trong 6 vòng thi: chất giọng, hơi điệu, phong cách, cảm xúc, tài năng và tỏa sáng Bông lúa vàng. Trải qua các vòng thi hấp dẫn, Hội đồng giám khảo đã chọn được 3 thí sinh có chất giọng xuất sắc: Nguyễn Thị Mỹ Tiên (Hậu Giang), Võ Thị Phương Thúy (Cần Thơ) và Phan Thị Mai Phương (An Giang), để tranh tài trong vòng chung kết. Tại đây, cả 3 thí sinh đã nỗ lực thể hiện năng khiếu ca diễn qua vai Kiều Nguyệt Nga trong các phân đoạn của vở cải lương kinh điển Kiều Nguyệt Nga (ảnh) của soạn giả Nguyễn Ngọc Cung, với sự hỗ trợ diễn xuất của các nghệ sĩ Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang. Từng thí sinh cũng đã hoàn thành phần thi ca một bài vọng cổ tự chọn.

Đêm gala giao lưu nghệ thuật, công bố và trao giải thưởng Bông lúa vàng 2017 sẽ diễn ra tại Nhà hát VOH vào tối 5-1-2018. Chương trình có sự tham gia của các nghệ sĩ sân khấu: NSƯT Trọng Phúc, NSƯT Cẩm Tiên, NSƯT Lê Tứ, NS Minh Trường, Hà Như, Nhã Thi…

Nguồn: Theo Thúy Bình / sggp.org.vn

Gala Chèo 48h – Tôi chèo về quê hương

Chương trình Gala Chèo 48h – Tôi chèo về quê hương sẽ diễn ra vào ngày 14/1/2018 tại KTX Mễ Trì. Thanh Xuân, Hà Nội.

Chương trình là thành quả của năm thứ 4 mà dự án Chèo 48h được tổ chức. Trong suốt thời gian đó, các thành viên đã luôn cố gắng nỗ lực hết sức mình để đem đến những trải nghiệm tuyệt vời nhất cho những người yêu mến các bộ môn nghệ thuật truyền thống nói riêng và văn hóa truyền thống nói chung.

Chương trình Gala chèo 48h sẽ diễn ra vào tối 14/1/2018.

​Điều đặc biệt làm nên sức hút của Chèo 48h, cũng như chương trình Gala 2017 chính là ở những con người từ nhiều độ tuổi, ngành nghề, lĩnh vực khác nhau cùng tụ hợp lại vì một niềm yêu thích với nghệ thuật chèo.

Theo đó, chương trình sẽ khắc họa chuyến hành trình đặc biệt ngày Tết, khi một cô bé thành phố bất ngờ được trải nghiệm trải nghiệm không khí Tết ở quê với những phiên chợ có gánh hát xẩm, không gian đình làng có múa hát Chèo và diễn xướng Chầu Văn…

Chương trình với sự dẫn dắt của các nghệ sĩ như: NSƯT Đoàn Thanh Bình, NS Nguyễn Tuấn Kha, NS Nguyễn Văn Phương, NS Lê Thu Hiền, NS dân gian Mai Thiện, NS dân gian Ngô Văn Hảo. Các tiết mục sẽ không phân tách riêng lẻ mà cùng liên kết với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, được dẫn dắt bởi hai thế hệ già – trẻ, như một cách truyền lửa của người đi trước với người đi sau, là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng với những người trẻ về việc giữ gìn, tiếp nối tinh hoa truyền thống dân tộc.

Sau những chặng đường đầu tiên, Chèo 48h dự định sẽ tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng các chương trình, cụ thể bắt đầu từ chương trình Gala sắp tới như một món quà đặc biệt dành tặng khán giả, một thành quả nỗ lực miệt mài của những con người vẫn luôn cần mẫn chèo đò ngược dòng hiện đại – truyền thống.

Nguồn: Theo Gia Linh / cinet.vn

Tạo điều kiện tốt nhất cho các văn nghệ sĩ sáng tạo nghệ thuật

Tạo điệu kiện tốt nhát cho các văn nghệ sĩ sáng tạo nghệ thuật. Đó là khẳng định của ông Huỳnh Văn Ngàn – Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2017, triển khai nhiệm vụ kế hoạch công tác năm 2018. Thứ trưởng Bộ VHTTDL Vương Duy Biên tham dự và chủ trì hội nghị.

Báo cáo tại Hội nghị, ông Trần Mạnh Cường – Phó giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật khẳng định: “Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật và các Nhà sáng tác luôn xác định nhiệm vụ tổ chức Trại sáng tác văn học nghệ thuật vừa là nhiệm vụ chính trị, vừa là nhiệm vụ chuyên môn trong hoạt động. Văn nghệ sĩ đến sáng tác tại các Nhà sáng tác có chất lượng tác phẩm tốt và đạt hiệu quả cao là mục tiêu Trung tâm luôn hướng tới”.

 

 

Thứ trưởng Vương Duy Biên phát biểu chỉ đạo Hội nghị

Trong năm 2017, Trung tâm đã mở 73 trại sáng tác, với 1.122 tác giả dự trại; tổng số ngày tác giả dự trại là 16.254 ngày; tổng số tác phẩm sáng tác ra là 4049 tác phẩm với nhiều thể loại văn học, nghệ thuật.
Đặc biệt, năm 2017, lần đầu tiên Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật đã tổ chức thành công việc tổ chức thực hiện Đề án “Lễ công bố các tác phẩm và công trình văn học nghệ thuật tiêu biểu được sáng tác tại các Nhà Sáng tác do Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức trong hai năm 2015-2016”. Lễ công bố được tổ chức trang trọng, có ý nghĩa lan tỏa sâu rộng trong xã hội, được các cơ quan đơn vị liên quan, các cơ quan truyền thông và dư luận xã hội đánh giá cao về chất lượng và hiệu quả.
Thông qua các hoạt động, các đồng chí Lãnh đạo Bộ, ban ngành ở Trung ương, các văn nghệ sĩ, các cơ quan thông tấn báo chí đánh giá cao thành quả mà Trung tâm đã đạt được trong những năm qua trong việc tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ sáng tác ra nhiều tác phẩm có giá trị về tư tưởng nội dung, nghệ thuật; đồng thời cũng chỉ ra được những tồn tại cần khắc phục, đổi mới để thực hiện tốt những nhiệm vụ này trong những năm tiếp theo.
Về công tác triển khai hoạt động có thu sự nghiệp, trong năm qua, kết quả thu dịch vụ tại 6 Nhà sáng tác đạt 5,2 tỷ. Bên cạnh đó, trong nhiều năm qua, được sự quan tâm của Lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hệ thống Nhà Sáng tác đã được nâng cấp và mở rộng.
                                                                   Toàn cảnh Hội nghị
Trong năm 2018, trung tâm sẽ tiếp tục triển khai thực hiện tốt công tác tổ chức Trại sáng tác, đồng thời đổi mới việc tổ chức Trại để đem lại hiệu quả cao hơn trong hoạt động sáng tác của văn nghệ sĩ. Tập trung theo các mô hình, văn nghệ sĩ có đề cương, đề tài tốt tổ chức đi sáng tác dài ngày, ít người; Tổ chức Trại sáng tác theo chuyên ngành, theo vùng, theo chiều sâu; Tổ chức thành công 62 trại sáng tác theo mô hình cũ.
Đặc biệt trong công tác quản lý, điều hành và nghiệm thu tác phẩm, ông Huỳnh Văn Ngàn cho hay, năm 2018, Giám đốc các Nhà sáng tác sẽ phối kết hợp với chuyên gia đầu ngành trên tất cả các lĩnh vực sáng tác văn học nghệ thuật để thẩm định, đánh giá, trao đổi, góp ý cho các tác giả đến dự Trại. Sau khi thẩm định, nếu tác phẩm có chất lượng tốt có thể xem xét xin đầu tư nguồn kinh phí của Bộ để in ấn, xuất bản.
Tại hội nghị, các đại biểu thuộc các Hội Văn học nghệ thuật đánh giá cao những nỗ lực của Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật trong việc tạo điều kiện thuận lợi nhất cho văn nghệ sĩ sáng tác.
Kết luận tại hội nghị, Thứ trưởng Vương Duy Biên ghi nhận những đóng góp của Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật thời gian qua, đặc biệt là việc tổ chức thành công “Lễ công bố các tác phẩm và công trình văn học nghệ thuật tiêu biểu được sáng tác tại các Nhà Sáng tác do Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức trong hai năm 2015-2016”.
Trong năm tới, Thứ trưởng Vương Duy Biên nhấn mạnh, cần nâng cao công tác truyền thông, xã hội hóa, đồng thời nghiên cứu hướng đề xuất tổ chức Lễ công bố các tác phẩm và công trình văn học nghệ thuật tiêu biểu lần thứ 2.
Vấn đề khó khăn chung của văn nghệ sĩ hiện nay là tìm đầu ra cho các tác phẩm, làm thế nào để đưa các tác phẩm tới với công chúng. Do đó, Thứ trưởng đề nghị cần thay đổi hình thức phổ biến tác phẩm qua nhiều kênh truyền thông khác nhau.
Mặt khác, để nâng cao chất lượng nghệ thuật các tác phẩm tại Nhà sáng tác, Thứ trưởng cho rằng, Trung tâm cần phối hợp với các Hội chuyên ngành lựa chọn nghệ sĩ đi dự trại và cải tiến đầu tư cho các nghệ sĩ, phải đầu tư có chiều sâu để tạo ra các tác phẩm chất lượng, sáng tác để vươn tới đỉnh cao./.
Nguồn: Theo Gia Linh / bvhttdl.gov.vn

Bộ VHTTDL chấn chỉnh hoạt động Hầu đồng

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa ban hành văn bản yêu cầu các Sở địa phương chấn chỉnh việc thực hiện hoạt động Hầu đồng.

Ngày 12/2, Bộ VHTTDL có văn bản số 618/BVHTTDL-DSVH gửi các Sở VHTT/Sở VHTTDL các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương về việc chấn chỉnh hoạt động Hầu đồng trong Thực hành Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ của người Việt.
Theo đó, văn bản nêu rõ, để triển khai hiệu quả và nghiêm túc Chương trình hành động quốc gia bảo vệ di sản Thực hành Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ của người Việt đã được Bộ VHTTDL công bố, Bộ VHTTDL yêu cầu Sở VHTT/Sở VHTTDL kịp thời kiểm tra, chấn chỉnh các hiện tượng phản cảm, sai lệch với bản chất của di sản văn hóa phi vật thể Thực hành Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ của người Việt, cụ thể:
Chỉ tổ chức Hầu đồng ở những nơi có điện thờ Mẫu hoặc di tích thờ Mẫu; không tổ chức nghi lễ Hầu đồng ở khu vực công cộng với tính chất một loại hình dịch vụ du lịch hay ca nhạc đường phố.
Bộ VHTTDL yêu cầu các địa phương chấn chỉnh hoạt động Hầu đồng.
(Ảnh minh họa )
Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người thực hành về giá trị của di sản, qua đó khuyến cáo hạn chế việc sử dụng nhiều vàng mã và đồ lễ đắt tiền để chia, phát lộc trong lễ hầu đồng.
Ngăn chặn, xử lý hiện tượng lợi dụng hầu đồng, lợi dụng niềm tin của nhân dân để trục lợi, kiếm tiền và làm ảnh hưởng đến đời sống tâm linh, tinh thần của cộng đồng.
Trình Ủy bản nhân dân tỉnh/thành phố xem xét ban hành quy chế bảo vệ và phát huy giá trị di tích, trong đó quy định rõ không gian và thời gian được thực hành hầu đồng tại di tích nhằm đảm bảo sự trang nghiêm và không gian phục vụ khách tham quan di tích./.
Nguồn: St Internet

Tín ngưỡng thờ Mẫu – “bảo tàng sống” lưu giữ bản sắc văn hóa người Việt

Nghi lễ Chầu văn, hay còn gọi là Hầu đồng là nghi thức tín ngưỡng tiêu biểu nhất với tên gọi chính thức “Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể của nhân loại vào ngày 1/12/2016.

 Giá trị tâm linh to lớn
“Tín ngưỡng thờ Mẫu” là một tín ngưỡng dân gian thuần Việt, có lịch sử lâu đời của người Việt Nam, biến chuyển thích ứng với sự thay đổi của xã hội. Tín ngưỡng thờ Mẫu hướng đến cuộc sống thực tại của con người với ước vọng sức khỏe, tài lộc, may mắn… là một nhu cầu trong đời sống tâm linh của người Việt, mang lại cho họ sức mạnh, niềm tin và có sức thu hút mọi tầng lớp trong xã hội.
Mỗi giá đồng là một lần trùm khăn đỏ, thay xiêm y, xức nước hoa, tô son, điểm phấn, đeo vòng, vấn khăn… với những điệu múa hương, múa lửa rất điệu nghệ, rồi phán truyền, hướng về “đời sống thực tại” ban hạnh phúc, tài lộc, may mắn sức khỏe… (Trong ảnh, một buổi biểu diễn chào mừng ngày “Tín ngưỡng thờ Mẫu” được UNESCO vinh danh. Ảnh: Báo Một Thế Giới)
Trong dân gian, tục thờ Mẫu có nguồn gốc từ thời Tiền sử khi người Việt thờ các thần linh thiên nhiên, các thần linh này kết hợp trong khái niệm Thánh Mẫu hay còn gọi là nữ thần Mẹ.
Trải qua lịch sử, tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta đã phát triển hình thành tín ngưỡng Tam phủ (Thiên phủ, Nhạc phủ, Thoải phủ), Tứ phủ (ba phủ trên có thêm Địa phủ).
Theo tư liệu của Cục Di sản văn hóa, từ thế kỷ XVI, trên cơ sở tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ, với sự ra đời của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, một tôn giáo bản địa sơ khai được hình thành. Tín ngưỡng thờ Mẫu còn gắn liền với nghệ thuật Chầu văn hay còn gọi là Hát văn – một loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống của người Việt đã được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
“Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” là sự hỗn dung tôn giáo bản địa của người Việt và một số yếu tố của tôn giáo du nhập như Đạo giáo, Phật giáo. Các Thánh Mẫu, các vị thần trong điện thần tam phủ có nguồn gốc không chỉ của người Kinh, mà còn của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam như người Mường, Tày, Nùng, Dao… thể hiện sự giao lưu văn hóa, mối quan hệ bình đẳng, gắn bó mật thiết giữa các dân tộc ở Việt Nam.
Hầu đồng còn có tính giao thoa văn hóa, cởi mở, giao lưu với các nền văn hóa khác. Thông qua việc kết hợp một cách nghệ thuật các yếu tố văn hóa dân gian như trang phục, âm nhạc, hát chầu văn, múa, diễn xướng dân gian trong lên đồng và lễ hội, “Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ” như một “bảo tàng sống” lưu giữ lịch sử, di sản và bản sắc văn hóa của người Việt.
Niềm tự hào dân tộc
Với giá trị văn hóa tín ngưỡng to lớn, từ cuối năm 2012, Bộ VH-TT&DL đã thành lập Hội đồng di sản phi vật thể. Ngay trong lần ra mắt, Hội đồng đã trình lên Bộ hồ sơ Hầu đồng, đề nghị công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam.
Sau đó Bộ đã giao cho trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn tín ngưỡng Việt Nam phối hợp với tỉnh Nam Định chuẩn bị hồ sơ gửi lên UNESCO để công nhận nghi lễ Hầu đồng (trong đó có Hát văn) là Di sản phi vật thể nhân loại.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, đạo Mẫu thực sự là một tổng thể lộng lẫy tinh tế, xứng đáng đại diện cho văn hoá dân tộc trong mọi hoạt động quảng bá sắp tới cho văn hoá Việt Nam trên toàn thế giới
Các thông tin trong Hồ sơ đã chỉ ra rằng, di sản đã và đang góp phần quan trọng vào việc tạo ra sợi dây tinh thần liên kết các cộng đồng thực hành di sản. Từ góc độ xã hội, với tính chất cởi mở của di sản, đã thúc đẩy sự khoan dung giữa các sắc tộc và tôn giáo. Di sản này đã được trao truyền lại từ thế kỷ thứ XVI thông qua việc thực hành, truyền dạy của thủ nhang, đồng đền và con nhang, đệ tử… Nó tương thích với các quy định về nhân quyền quốc tế và không có giới hạn về thực hành.
Trong đó, bộ phận cấu thành của di sản này góp phần vào khả năng thực hành di sản nói chung và nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của nó ở các cấp độ khác nhau; đưa ra được những điểm tương đồng văn hóa giữa các cộng đồng và các nhóm người tham gia vào việc thờ Mẫu như là biểu tượng của lòng từ bi và độ lượng, cùng với đó là sự kết hợp của Đạo giáo, Phật giáo và các tôn giáo khác.
Với việc được UNESCO thông qua thì “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” đã trở thành di sản thứ 11 của Việt Nam được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và Danh sách di sản văn hoá cần được bảo vệ khẩn cấp gồm: Nhã nhạc – Nhạc Cung đình triều Nguyễn (2003), Không gian văn hoá Cồng chiêng Tây Nguyên (2005), Hát Ca Trù của người Việt (2009), Dân ca Quan họ (2009), Hội Gióng ở đền Sóc và đền Phù Đổng (2010), Hát Xoan Phú Thọ (2011), Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ (2012), Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ (2013), Dân ca Ví Giặm Nghệ Tĩnh (2014), Nghi lễ và Trò chơi Kéo co (2015, Hồ sơ đa quốc gia, hợp tác với: Hàn Quốc, Campuchia và Philippin).
Theo GS Trần Lâm Biền, sự kiện UNESCO ghi danh “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại khẳng định những nỗ lực của các cấp, các ngành và cộng đồng trong việc bảo tồn kho tàng di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc. Xét về khía cạnh văn hóa, đây cũng là sự khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Ngày 1/12/2016, tại Phiên họp Uỷ ban Liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO diễn ra tại thành phố Addis Ababa, Cộng hòa dân chủ Liên bang Ethiopia, di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” đã chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Đoàn Việt Nam tại Phiên họp Uỷ ban Liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO diễn ra tại thành phố Addis Ababa, Cộng hòa dân chủ Liên bang Ethiopia. (Ảnh: Báo Thế giới & Việt Nam). 
Theo ông Phạm Sanh Châu – Vụ trưởng Vụ Văn hóa và UNESCO (Bộ Ngoại giao), người có mặt tại Ethiopia tham dự phiên họp của Ủy ban Liên chính phủ Công ước Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể 2003 đánh giá thì “đây là lần đầu tiên UNESCO vinh danh Người phụ nữ Việt nam qua hình ảnh của Thánh Mẫu”.
Còn bà Trần Thị Hoàng Mai – Phó Tổng thư ký Ủy ban UNESCO Quốc gia Việt Nam cho biết, đây là một niềm tự hào của Việt Nam, của những người thực hành tín ngưỡng, của giới chuyên gia, của những người tham gia quản lý.
Là một dịp để nâng cao ý thức, hiểu một cách sâu sắc hơn giá trị của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt, từ niềm tự hào đó thấy được trách nhiệm bảo vệ giá trị di sản này. Danh hiệu này cũng nâng cao vị thế của Việt Nam, là một trong số những nước được UNESCO công nhận nhiều di sản văn hóa.

Đạo diễn Việt Tú, người sáng lập Viettheatre với vở diễn Tứ Phủ cũng từng chia sẻ: “Với người Việt Nam thì đây chắc hẳn là điều rất đỗi vui mừng vì chúng ta đã có thêm một di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại. Về khía cạnh văn hoá thì vị thế của Việt Nam sẽ được nâng cao hơn. Thông qua niềm vui này, những nét đẹp về tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, đặc biệt là ở phần trình diễn sẽ được cả thế giới biết đến và tôn trọng”.

Có thể nói, việc UNESCO vinh danh “Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” cũng là dịp nâng cao ý thức, hiểu sâu sắc hơn về giá trị Hầu đồng, có kế hoạch cụ thể để bảo tồn, phát huy và đẩy mạnh ra nước ngoài… và giữ gìn, bảo tồn đúng quy định. Đặc biệt là không được thương mại hóa đức tin, làm trái với tín ngưỡng thờ Mẫu.

 Giữ gìn, bảo tồn, phát huy như thế nào?

Tục thờ Mẫu của Việt Nam được hình thành từ rất sớm. Điều này được khẳng định trong các tư liệu cổ còn đang lưu giữ tại Viện Hán Nôm. Đã có thời kỳ tục thờ này phát triển cực thịnh và được gọi là Đạo Bà Đồng hay còn gọi là Đạo Mẫu.

GS Trần Lâm Biền: Hiện nay trong dòng họ Trần Lê thuộc thôn Tiên Hương, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản còn lưu giữ nhiều tư liệu cổ gồm ngọc phả, gia phả và 07 đạo sắc phong từ năm 1683 đời vua Chính Hòa đến năm 1924 đời vua Khải Định. Tại Phủ Chính Phủ Dầy còn lưu giữ 14 đạo sắc phong (từ năm 1730 đời vua Lê Vĩnh Khánh đến năm 1924 đời vua Khải Định) được các vua và nhân dân suy tôn là Mẫu Nghi Thiên Hạ, Chúa Tể Việt Nam, Mã Vàng Bồ Tát, Chế Thắng Hòa Diệu Đại Vương, Thượng Đẳng Trung Thần và là một trong bốn vị thánh Tứ Bất Tử của Việt Nam. Theo tư liệu cổ của giáo sĩ phương Tây và tài liệu Hán Nôm từ năm 1765 đã gọi là Đạo Thánh Mẫu (Đạo Bà Đồng). Đây là đạo gốc mang những nét đẹp đậm đà bản sắc dân tộc của người Việt được hình thành và hun đúc từ tục thờ cúng tổ tiên và những vị anh hùng dân tộc, có công với dân, với nước được nhân dân suy tôn, lập các đền phủ, miếu mạo thờ phụng từ xưa đến nay.
Chia sẻ với PV, bà Trần Thị Huệ, Thủ nhang Phủ Chính Tiên Hương (Phủ Dầy Nam Định) cho biết: Đạo Mẫu là đạo gốc của Việt Nam, thờ các vị thánh, các vị anh hùng dân tộc có công dựng nước và giữ nước đem lại cuộc sống hòa bình, ấm no cho nhân dân. Thời gian vừa qua, trên mạng xã hội đăng một số clip thuyết giảng với nội dung gây bức xúc và phẫn nộ trong cộng đồng tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam, ảnh hưởng đến Đạo mẫu.

Bà Trần Thị Huệ, Thủ nhang Phủ Chính Tiên Hương (Phủ Dầy, Nam Định): Đạo Mẫu là đạo gốc của Việt Nam, thờ các vị thánh, các vị anh hùng dân tộc có công dựng nước và giữ nước đem lại cuộc sống hòa bình, ấm no cho nhân dân, cần được bảo tồn, phát huy giá trị. (Ảnh: C.Tr)
Hơn thế, 19h ngày 31/12/2017 tại khu vực Uông Bí – Quảng Ninh, một số tài khoản mạng xã hội tiếp tục xuất hiện một số người tổ chức đăng đàn thuyết pháp, giải đáp cho các phật tử và những lời giải đáp thể hiện thái độ không đúng mực, xuyên tạc “Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” và các vị thánh có công với đất nước với nhân dân vẫn được nhân dân phụng thờ và tôn kính.
Các tài khoản này chưa được xác thực. Các cấp, các ngành chức năng cần vào cuộc xác minh, làm rõ, xử lý nghiêm minh những hành vi sai phạm, chia rẽ tôn giáo, gây nhiều bức xúc cho nhân dân (nếu có), trả lại công bằng và uy linh cho Đạo Mẫu Việt Nam; và cũng là bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo nói chung, bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Theo baonhandao.vn

Không để đờn ca tài tử bị mai một

Tháng 12/2013, UNESCO đã chính thức công nhận Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ của Việt Nam là di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại, là một trong số 11 di sản phi vật thể của Việt Nam đã được vinh danh. Tuy nhiên những năm qua, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản đặc biệt này đang gặp nhiều khó khăn…

 Di sản bây giờ ra sao? 
Để được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể, đờn ca tài tử Nam Bộ phải đáp ứng nhiều tiêu chí khắt khe mà UNESCO đưa ra như: Được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giáo dục chính thức và không chính thức tại khắp 21 tỉnh phía Nam; Đờn ca tài tử liên tục được tái tạo thông qua trao đổi văn hóa với các dân tộc khác nhau, thể hiện sự hoà hợp và tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc…
 Sân khấu hóa đờn ca tài tử.
Các di sản của Việt Nam khá nhiều nhưng con số được công nhận rất ít trong đó có đờn ca tài tử Nam Bộ. Từ lâu đờn ca tài tử được xem là một trong những thể loại đặc trưng của vùng đất Nam Bộ được hình thành cách đây hơn 100 năm và giữ gìn, phát triển cho đến ngày nay. Thời gian qua, các địa phương ở Nam Bộ từ cấp xã, phường, thị trấn đến cấp tỉnh, thành đang có nhiều cố gắng để bảo tồn và phát huy giá trị di sản đặc biệt này. Rất nhiều câu lạc bộ, đội, nhóm sinh hoạt đờn ca tài tử được thành lập. Các cuộc thi, liên hoan đờn ca tài tử thường xuyên được tổ chức.
Đặc biệt Bộ VHTTDL đã quyết định tổ chức Festival Đờn ca tài tử luân phiên ở 21 tỉnh thành khu vực phía Nam. Thông qua Festival Đờn ca tài tử nhằm tạo ra sân chơi cho các tỉnh, thành giao lưu, trao đổi và học hỏi. Đờn ca tài tử còn gắn liền với phát triển du lịch, hầu hết các khu du lịch, khu sinh thái hay các đại danh điều có sinh hoạt đờn ca tài tử, nó không chỉ là một nghề kiếm sống mà còn là một món ăn tinh thần.
Ở Nam Bộ có những gia đình không những 1 thế hệ mà 3 đến 4 thế hệ đều tham gia sinh hoạt thể loại âm nhạc này, đây là nơi nuôi dưỡng bộ môn nghệ thuật đờn ca tài tử từ đời này sang đời khác.
Tuy nhiên những hình thức tổ chức sinh hoạt đờn ca tài tử như trên đang được xem là nhất thời và chưa căn cơ. Việc bảo tồn, giữ gìn và phát triển đờn ca tài tử còn rất hạn chế. Đa số các câu lạc bộ sinh hoạt không thường xuyên và những người tham gia sinh hoạt là những người lớn tuổi rất ít thanh thiếu niên tham gia sinh hoạt; sự quan tâm của các ngành có chức năng chưa đúng mức, chưa xây dựng được một đề án bảo tồn lâu dài, căn cơ, đa số thế hệ những người hát đờn ca tài tử điều đã lớn tuổi nên việc truyền dạy còn rất hạn chế. Những nghệ nhân hát đờn ca tài tử điều vì sự đam mê chứ không phải là để kiếm sống.
Câu chuyện đưa âm nhạc dân tộc trong đó có đờn ca tài tử vào học đường đang là vấn đề đặc biệt quan tâm, các lãnh đạo, nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc, giới văn nghệ sĩ, điển hình là cố GS Trần Văn Khê đã thí điểm giảng dạy và trình diễn đờn ca tài tử tại một số điểm trường trong đó có Trường Tiểu học Trần Hưng Đạo (TPHCM) sau một thời gian ngắn đã thành công ngoài mong đợi, các trường ở TPHCM, Bạc Liêu mặc dù không giảng dạy trên lớp nhưng đã tổ chức các buổi ngoại khóa mời các diễn giả giới thiệu và trình diễn về đờn ca tài tử. Qua những buổi ngoại khóa đó các em học sinh rất thích thú, yêu thích âm nhạc dân tộc hơn.
Trách nhiệm không của riêng ai
Sau khi đờn ca tài tử được công nhận là di sản văn hoá, câu hỏi về việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản luôn được đặt ra. Tuy nhiên qua tìm hiểu và những phản ánh của các địa phương, nhà quản lý văn hoá và các nghệ sĩ, đến nay sự quan tâm này vẫn chưa tương xứng.
Cụ thể, việc đầu tư cho các CLB đờn ca tài tử ở các cấp, địa phương chưa đúng mức. Quá trình đổi mới phương pháp sinh hoạt để thu hút giới trẻ tham gia còn chậm, thậm chí là chưa có gì, vẫn là cách sinh hoạt kiểu truyền thống. Phải xây dựng được một cơ chế hỗ trợ cho các nghệ nhân đờn ca tài tử để họ có thể “sống được” với cái nghề mà mình tâm huyết.
Mặc dù các trường đã đưa đờn ca tài tử vào giảng dạy nhưng chỉ dừng lại ở mức độ thí điểm và chưa có sự đầu tư, chưa có sự đồng bộ về giáo trình và phương pháp giảng dạy. Cách nuôi dưỡng tốt nhất và con đường gần nhất là đưa âm nhạc dân tộc tới thế hệ trẻ là đưa âm nhạc vào học đường, để cho giới trẻ thấy được cái hay cái đẹp của đờn ca tài tử để từ đó giới trẻ mới nhìn ra trách nhiệm của mình. Có thể nói đưa đờn ca tài tử vào học đường là yếu tố sống còn của thể loại âm nhạc này. Còn nhớ cố GS Trần Văn Khê từng chia sẻ: “Phải để trẻ em nghe âm nhạc dân tộc trước khi nghe âm nhạc nước ngoài”, điều này cho thấy rằng phải đưa đờn ca tài tử vào cấp học nhỏ nhất chứ không phải đến cấp 2 hoặc cấp 3 mới đưa vào giảng dạy.
Đờn ca tài tử đã được công nhận di sản văn hóa phi vật thể, đây là niềm tự hào của dân tộc nói chung của người dân vùng đất Nam Bộ nói riêng. Vấn đề bảo tồn và phát huy thể loại âm nhạc đặc biệt này cần sự chung tay của cả xã hội chứ không phải của cá nhân…
Nguồn: Theo Trần Quang / daidoanket.vn

Thứ trưởng Vương Duy Biên dự tổng kết công tác năm 2017 Nhà hát Chèo Việt Nam

Sáng 01/02, Nhà hát Chèo Việt Nam đã tổ chức Hội nghị tổng kết công tác năm 2017, phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2018. Thứ trưởng Bộ VHTTDL Vương Duy Biên đã tới dự.

Báo cáo tổng kết công tác năm 2017 do Phó Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam Nguyễn Ngọc Kình trình bày tại hội nghị nêu rõ: Năm 2017 mặc dù còn rất nhiều khó khăn, nhưng bằng tinh thần đoàn kết, quyết tâm cùng sự nỗ lực cố gắng không biết mệt mỏi của tập thể cán bộ, nghệ sỹ, diễn viên, công nhân viên và người lao động, Nhà hát Chèo Việt Nam đã năng động, sáng tạo, nỗ lực vượt qua khó khăn, trở ngại hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị cũng như nhiệm vụ chuyên môn.

Thứ trưởng Vương Duy Biên phát biểu chỉ đạo tại hội nghị
Cụ thể, trong năm 2017, Nhà hát Chèo Việt Nam đã tổ chức nhiều hoạt động biểu diễn phục vụ nhiệm vụ Chính trị và bà con nhân dân các tỉnh đồng bằng Bắc bộ đón Tết Nguyên đán Đinh Dậu 2017; Duy trì biểu diễn thường xuyên chương trình các trích đoạn Chèo Truyền thống và ca hát dân gian tại sân khấu Nhỏ Kim Mã vào các tối thứ 6 trong tuần; Tham gia biểu diễn chương trình “Bản làng vui Tết đón Xuân”, “Sắc màu các dân tộc Việt Nam” và “Đại đoàn kết Văn hóa các dân tộc Việt Nam” năm 2017 tại Làng Văn hóa các Dân tộc Việt Nam. Nhà hát cũng đã tổ chức ghi hình vở Chèo “Huyền tích một loài Hoa ”, “Giếng Thơi trong lòng phố”, “Nam Mô Thích Ca Mâu ni Phật”; Ghi âm vở Chèo “Đường trường Duyên phận”, “Giai điệu Tổ quốc ’’phát trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam phục vụ nhân dân; xây dựng chương trình nghệ thuật chất lượng cao biểu diễn tại Nhà hát Lớn Hà Nội; tham dự Festival Nhà hát Chuncheon tại Chuncheon Hàn Quốc; biểu diễn giới thiệu, quảng bá nghệ thuật truyền thống của Việt Nam tại Hội chợ quốc tế và nghệ thuật ăn uống Dijon tại thành phố Dijon – Cộng hòa Pháp trong chương trình Xúc tiến Du lịch Quốc gia 2017;…
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong năm 2017, Nhà hát Chèo Việt Nam còn gặp một số hạn chế như: Công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ, cán bộ nữ chưa đạt yêu cầu đề ra, vẫn còn tình trạng thiếu hụt cán bộ quản lý có chuyên môn, nghiệp vụ cao, nhất là đội ngũ cán bộ kế cận…
Thứ trưởng Vương Duy Biên tặng Cờ Thi đua của Bộ VHTTDL
 cho tập thể cán bộ, nghệ sỹ, diễn viên Nhà hát Chèo Việt Nam.
Nhằm phát huy những kết quả đã đạt được đồng thời khắc phục những mặt còn hạn chế trong năm 2017, bước sang năm mới 2018, tập thể cán bộ, nghệ sỹ, diễn viên Nhà hát Chèo Việt Nam quyết tâm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trọng tâm: Bảo đảm công tác biểu diễn phục vụ nhân dân hoàn thành kế hoạch Bộ VHTTDL giao với 160 đêm diễn; các chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị đột xuất do Cục Nghệ thuật biểu diễn (Bộ VHTTDL) giao; biểu diễn định kỳ tại sân khấu Nhỏ Rạp Kim Mã (08 tháng/buổi); biểu diễn định kỳ tại sân khấu Lớn Rạp Kim Mã (04 buổi/tháng); Dàn dựng 02 vở mới, phục dựng 01 vở diễn, dựng 01 vở thể nghiệm; Xây dựng chương trình để giới thiệu nghệ thuật Chèo tại Hoa Kỳ; Triển khai dự án Xúc tiến Du lịch 2018 tại Nhà hát.
 Toàn cảnh hội nghị
Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ VHTTDL Vương Duy Biên đã ghi nhận những kết quả mà tập thế cán bộ nghệ sỹ, diễn viên Nhà hát Chèo Việt Nam đã đạt trong năm 2017.
Thứ trưởng đặc biệt đề nghị, tập thể cán bộ lãnh đạo nhà hát Chèo Việt Nam cần tiên liệu đến những khó khăn trong khoảng thời gian 5 – 10 năm tới để từ đó có chiến lược thay đổi về các mặt như: Công tác truyền thông, các vở diễn cần tạo sự hấp dẫn công chúng hơn nữa; cần có những gương mặt tài năng, những ngôi sao sáng để truyền thông và công chúng biết tới để từ đó hấp dẫn và thu hút lớp trể đến với nghệ thuật Chèo.
Thứ trưởng tin tưởng rằng, trong năm mới 2018, với tinh thần đoàn kết, nhất trí, tập thể lãnh đạo, cán bộ, nghệ sĩ diễn viên Nhà hát Chèo Việt Nam sẽ tạo nên những bước phát triển mạnh mẽ hơn nữa, đồng thời tạo được những thành quả mới trong sáng tạo nghệ thuật với những tác phẩm hay, hấp dẫn, lôi cuốn người yêu nghệ thuật truyền thống, góp phần tạo nên uy tín cũng như thương hiệu Nhà hát Chèo Việt Nam.
Thứ trưởng Vương Duy Biên tặng bằng khen cho các tập thể, 
cá nhân Nhà hát Chèo Việt Nam đã đạt thành tích xuất sắc trong năm 2017.

Tại hội nghị, Thứ trưởng Vương Duy Biên đã thay mặt lãnh đạo Bộ trao tặng Cờ thi đua năm 2017 cho Nhà hát Chèo Việt Nam đồng thời tặng bằng khen cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác và biểu diễn nghệ thuật năm 2017./.

Nguồn:Anh Vũ / bvhttdl.gov.vn

Quá trình thể nghiệm sân khấu hóa dân ca Nghệ Tĩnh

Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh là đặc sản của xứ Nghệ. Cũng như dân ca các vùng, miền trong cả nước, dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh xuất hiện từ lâu đời, có sức sống, sức lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống nhân dân.

Trải qua thăng trầm, biến đổi của lịch sử, dân ca đã góp phần không nhỏ vào việc giáo dục tư tưởng, tình cảm cho nhân dân và làm phong phú kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc. Việc kế thừa và phát huy vốn cổ quý báu đó được đặt ra như một tất yếu lịch sử và là bổn phận thiêng liêng của thế hệ hôm nay đối với di sản văn hóa. Chính vì vậy, hàng chục năm qua, dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh không những được bảo tồn bằng hình thức hát dân ca truyền thống mà còn phát triển mạnh mẽ theo hướng sân khấu hóa. Nhìn lại quá trình thể nghiệm sân khấu hóa dân ca Nghệ Tĩnh, chúng ta có thể thấy được những nét khái quát của kết quả đạt được, quá trình đó có thể chia làm ba giai đoạn:

Dân ca Ví giặm là đặc sản của vùng đất xứ Nghệ

– Giai đoạn 1: Từ 1972- 1985: Giai đoạn này chủ yếu tập trung làm công tác sưu tầm, nghiên cứu và thể nghiệm một số vở để rút kinh nghiệm, trong đó có vở “Cô gái sông Lam” của tác giả Nguyễn Trung Phong, được chuyển thể từ chèo sang. Đỉnh cao của giai đoạn này là vở “Mai Thúc Loan” của tác giả Phan Lương Hảo, được tặng Huy chương Vàng cho vở diễn, nhạc sĩ và hai diễn viên chính tại Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985. Vở “Mai Thúc Loan” được thể nghiệm thành công toàn diện từ khấu kịch bản, đạo diễn, âm nhạc thiết kế mỹ thuật, phục trang…Sự thành công này là tổng hợp cả quá trình thể nghiệm trong giai đoạn 1. Đồng thời đề xuất được một số hướng phát triển mới như: Tìm phong cách riêng cho sân khấu dân ca, hát nói, hát có tính kịch sâu sắc trong sân khấu dân ca… Giai đoạn 1 đã tổ chức được hai cuộc hội thảo khoa học quan trọng vào các năm 1976, 1984. Hội thảo khoa học đã khẳng định được phương hướng phát triển cho bộ môn kịch hát dân ca, tạo điều kiện để đoàn dân ca tiếp tục nghiên cứu, thể nghiệm trong giai đoạn tiếp theo.

– Giai đoạn 2: Từ 1986 – 1991: Sau thắng lợi của vở “Mai Thúc Loan”, kịch hát dân ca Nghệ Tĩnh đã được giới sân khấu cả nước công nhận, trở thành một bộ môn kịch hát mới “Kịch hát dân ca”. Nhiều vở diễn có quy mô hoành tráng lại được tiếp tục giàn dựng, thể nghiệm và công bố kết quả phục vụ nhân dân trong tỉnh, một số tỉnh, thành phố khác và đưa lên hệ thống thông tin đại để chúng phục vụ nhân dân trong cả nước. Giai đoạn này, ngoài việc tiếp tục thể nghiệm đề tài dân gian, lịch sử, dã sử như “Bão táp cửa Kỳ Hoa” của tác giả Phạm Ngọc Côn, “Ông vua hóa hổ” của tác giả Lưu Quang Vũ, đoàn còn mạnh dạn thể nghiệm đề tài hiện đại như: “Hai ngàn ngày oan trái”, “Quyền được sống hạnh phúc” của tác giả Lưu Quang Vũ…Giai đoạn này tổ chức được một cuộc hội thảo khoa học vào năm 1987, hội thảo khoa học đã đánh giá được kết quả thể nghiệm của giai đoạn 1, đồng thời mở ra một số hướng quan trọng để tiếp tục thể nghiệm trong giai đoạn tiếp nối.

– Giai đoạn 3: Từ 1992 đến nay (Giai đoạn này tính từ sau khi chia tách tỉnh Nghệ Tĩnh thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh): Giai đoạn này đã mạnh dạn thể nghiệm nhiều vở đề tài hiện đại và một số vở đề tài dân gian. Trong đó có một số vở diễn thể nghiệm thành công như “Chuyện tình ông vua trẻ” của tác giả Phùng Dũng, được tặng Huy chương Bạc tại Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1995. Vở sử thi nghệ thuật “Danh nhân lớn lên từ điệu hò, câu ví” của tác giả Vũ Hải, được tặng giải Xuất sắc tại Liên hoan Sân khấu Dân ca chuyên nghiệp toàn quốc năm 1999. Vở diễn này được thể nghiệm theo phong cách mới, từ khâu kịch bản, giàn dựng đến âm nhạc. Vở “Vết chân tròn trong bão tố” của tác giả Vũ Hải được tặng Huy chương Vàng  tại Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp miền duyên hải năm 1996, đề tài hiện đại, thể nghiệm theo phong cách mới. Giai đoạn này, Đoàn Dân ca Nghệ An cũng được nâng lên thành Nhà hát Dân ca, rồi Trung tâm Bảo tồn và Phát huy Dân ca xứ Nghệ. Từ khi được nâng lên thành Trung tâm Bảo tồn và Phát huy Dân ca xứ Nghệ đến nay, ngoài nhiệm vụ tiếp tục thể nghiệm sân khấu hóa dân ca Nghệ Tĩnh ở bước cao hơn, còn có trách nhiệm phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ nhân dân (được khoán chỉ tiêu hàng năm như các đoàn nghệ thuật khác). Ngoài ra, Trung tâm còn có nhiệm vụ quan trọng là tham mưu cho tỉnh và sở về việc bảo tồn và phát huy dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh. Nhất là quá trình lập hồ sơ khoa học trình UNESCO công nhận Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh là Di sản phi vật thể đại diện của nhân loại, Trung tâm đã tham mưu cho tỉnh và sở tổ chức nhiều cuộc hội thảo khoa học quan trọng tại Nghệ An về Ví, Giặm Nghệ Tĩnh. Trung tâm đã cùng với các đơn vị chuyên môn của bộ và hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, tổ chức cho đoàn đại diện UNESCO về kiểm tra Ví, Giặm, tổng kiêm kê phổ thông và kiểm kê khoa học về Ví, Giặm nguyên gốc, đây là căn cứ quan trọng để đưa vào hồ sơ khoa học, giúp các nhà khoa học nghiên cứu, đánh giá thật đầy đủ các giá trị nổi bật, riêng có của dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh để đưa vào hồ sơ khoa học trình UNESCO. Đặc biệt, đã phối hợp với chính quyền các địa phương trong hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, xây dựng và phát triển hệ thống câu lạc bộ hát dân ca, một hệ thống tổ chức quan trọng chuyên thực hiện nhiệm vụ đưa dân ca về với cộng đồng. Trung tâm phải làm nhiều việc như vậy cho nên việc thể nghiệm sân khấu hóa không được duy trì và phát triển như giai đoạn 1 và giai đoạn 2. Tuy nhiên, giai đoạn từ 1992 đến nay, cũng không phải làm như hai giai đoạn trước, vì sân khấu thể nghiệm dân ca đã được định hình từ giai đoạn 1; Giai đoạn 2 chỉ bổ sung thêm bước thể nghiệm đối với đề tài hiện đại; Còn gai đoạn 3, chúng ta chỉ tập trung thể nghiệm đối với những vở diễn có quy mô hoành tráng, những vở diễn chuẩn bị cho các kỳ hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc. Còn lại, chúng ta có thể giàn dựng các vở diễn để phục vụ nhân dân, phục vụ nhiệm vụ chính trị theo cách đã làm ở giai đoạn 1 và giai đoạn 2. Sau đây, chúng ta có thể tìm hiểu thêm về các lĩnh vực thể nghiệm sân khấu hóa dân ca Nghệ Tĩnh:

Hát ví giặm bắt nguồn từ đời sống lao động sản xuất

– Về sáng tác và chuyển thể kịch bản: Kịch bản được xem là vấn đề cốt tử của sân khấu. Từ trước đến nay, đây là vấn đề băn khoăn, trăn trở của những người làm công tác sân khấu nói chung và sân khấu dân ca Nghệ Tĩnh nói riêng. Bởi vì cho đến nay, chưa có tác giả viết kịch bản riêng của loại hình sân khấu này, chưa có kịch bản hay viết cho sân khấu kịch hát dân ca Nghệ Tĩnh. Nếu nói vở “Mai Thúc Loan” của tác giả Phan Lương Hảo là viết riêng cho sân khấu dân ca thì cũng phải sửa chữa, cấu trúc lại, viết lại mới thành. Tác giả Vũ Hải có nhiều đóng góp cho sân khấu dân ca nhưng chắc chắn cũng chưa có vở nào Vũ Hải viết thẳng cho sân khấu dân ca mà cũng phải qua chuyển thể. Tuy nhiên, nhiều thập kỷ qua, sân khấu thể nghiệm dân ca Nghệ Tĩnh đã chọn được nhiều kịch bản hay để chuyển thể, có một số kịch bản đã được khẳng định, đôi khi nhầm đó là kịch bản viết riêng cho sân khấu dân ca.

Kịch bản đã không viết riêng cho sân khấu dân ca thì người chuyển thể đóng một vai trò hết sức quan trọng, họ đã làm cho kịch bản dưới dạng kịch hát nói chung, thậm chí dưới dạng kịch nói điều phải chuyển sang kịch hát dân ca. Kịch hát nói chung chuyển sang kịch hát dân ca là cùng một dạng kịch bản viết cho sân khấu ca kịch. Nhưng kịch nói chuyển sang kịch hát dân ca, người chuyển thể phải rất công phu, giống như viết lại vở kịch nói đó trở thành kịch hát. Phải thay đổi những lớp diễn gần gũi với kịch hát hơn. Phải lồng các làn điệu dân ca nguyên gốc, dân ca cải biên vào những lớp diễn đó. Nếu chưa có lời thơ của tác giả kịch bản thì người chuyển thể cũng phải làm thay, mới có lời lồng vào các điệu hát.

Với cách làm đó, nhiều thập kỷ qua chúng ta đã thể nghiệm thành công  nhiều loại hình kịch bản: Chính kịch, bi kịch, bi hài kịch…với các đề tài chính sử, dã sử, huyền thoại, dân gian, cách mạng, hiện đại… Sân khấu kịch hát dân ca Nghệ Tĩnh đã đạt được những thành công, được nhân dân đồng tình ủng hộ, được giới nghệ thuật sân khấu công nhận.

– Về thể nghiệm âm nhạc: Từ hội thảo đầu tiên năm 1976, định hướng thể nghiệm âm nhạc của sân khấu kịch hát dân ca theo hướng kịch hát truyền thống dân tộc (Tuồng, Chèo). Ưu tiên thể nghiệm các làn điệu gốc vào các tình huống, vai diễn của sân khấu. Khuyến khích sáng tác cải biên những làn điệu mới (bài hát mới) có tính đa dùng để đáp ứng yêu cầu phát triển của sân khấu. Nhạc nền và những bài hát chuyên dùng (chỉ dùng trong phạm vi một vở diễn) là để đáp ứng yêu cầu của sân khấu phát triển, tính kịch sâu sắc mà các làn điệu gốc và cải biên (đã dùng) không đáp ứng được.

Nhiều thập kỷ qua, nhiều nhạc sĩ, nghệ sĩ đã tham gia thể nghiệm âm nhạc như: Hồ Hữu Thới, Thanh Lưu, Mai Hồng, Văn Thế, Vi Phong, Đình Bảo, Hồng Lựu, Đình Đắc, Phan Thành…, đã sáng tác được gần 200 làn điệu mới, bài hát cải biên, phát triển dân ca. Trong đó, có khoảng 1/3 số bài có tính đa dùng (dùng trong nhiều vở). Gần 60 vở diễn với các đề tài khác nhau đã được thể nghiệm với tỷ lệ 50- 60% làn điệu gốc, 40- 50% làn điệu cải biên (có tình đa dùng) và bài hát mới (có tính chuyên dùng). Đặc biệt, đã có vở thể nghiệm đến 70% làn điệu gốc và làn điệu cải biên gần gốc, chỉ có 30% là nhạc nền và bài hát phát triển dân ca (chuyên dùng) như: vở “Chuyện tình ông vua trẻ” của tác giả Phùng Dũng. Ngược lại, có vở đã thể nghiệm từ 60-70% bài hát chuyên dùng, 30-40% còn lại là làn điệu gốc và làn điệu cải biên như vở “Danh nhân lớn lên từ điệu hò, câu ví” của tác giả Vũ Hải.

Có thể nói, quá trình thể nghiệm sân khấu hóa dân ca Nghệ Tĩnh, kho tàng âm nhạc dân gian xứ Nghệ không những được khai thác và phát huy triệt để mà còn được bổ sung thêm nhiều làn điệu mới làm cho khả năng biểu cảm của dân ca Nghệ Tĩnh được nâng lên, phong phú hơn. Chúng ta có thể khẳng định một điều, nếu không có quá trình sân khấu hóa thì kho tàng dân ca Nghệ Tĩnh sẽ không được kế thừa và phát triển đến như vậy, bởi trước đó các làn điệu nguyên gốc đang có nguy cơ bị mai một vì các nghệ nhân tuổi cao, sức yếu đã lần lượt ra đi.

– Về thể nghiệm dàn dựng: Đạo diễn là tác giả của vở diễn, nhiều thập kỷ qua cộng tác với đoàn kịch hát dân ca, nhà hát dân ca và sau này là Trung tâm Bảo tồn và Phát huy dân ca xứ Nghệ là những đạo diễn tài năng, tâm huyết, tên tuổi ở Trung ương như Lê Hùng, Xuân Huyền… Trong quá trình giàn dựng, mỗi đạo diễn có một thế mạnh riêng, có gu sáng tạo riêng. Có đạo diễn khai thác, vận dụng sáng tạo tinh hoa của sân khấu ca kịch truyền thống sang kịch hát dân ca, có đạo diễn lại dùng thế mạnh của sân khấu hiện đại để làm cho sân khấu dân ca vừa có tính truyền thống, vừa có tính hiện đại. Tất cả đã giúp cho sân khấu kịch hát dân ca Nghệ Tĩnh những điều kiện thể nghiệm phong phú, đa dạng trên bước đường tìm đến một phong cách riêng cho kịch hát dân ca xứ Nghệ.

Tóm lại, quá trình thể nghiệm sân khấu hóa dân ca xứ Nghệ đã khẳng định:  Loại hình kịch hát dân ca xứ Nghệ đã tạo được chỗ đứng vững chắc trong đời sống nghệ thuật. Tuy mức độ thành công của mỗi vở diễn khác nhau nhưng nhìn chung đây là một bộ môn nghệ thuật độc đáo, riêng có của vùng quê xứ Nghệ. Phong cách chủ đạo của bộ môn nghệ thuật này là: dung dị, mộc mạc, trữ tình, đằm thắm, sâu lắng mà không kém phần bi hùng, quyết liệt, sâu sắc như dân ca, con người và quê hương xứ Nghệ.

Nguồn: Theo nhạc sĩ Hồ Hữu Thới

Sưu tầm tại mục di sản văn hóa phi vật thể (Disanvanhoa.vn)