Nhận diện đúng giá trị văn hóa của “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ”

Sự kiện “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ” được UNESCO vinh danh là niềm vui lớn đối với di sản nước nhà, đồng thời cũng đặt câu hỏi trước việc phải nhận diện đúng về giá trị văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu. Đó là chìa khóa để tháo gỡ những băn khoăn lo ngại về sự biến tướng có thể đang tồn tại trong hầu đồng – nghi thức văn hóa hạt nhân của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ.

Chúng tôi có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Lê Thị Minh Lý – Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và phát huy giá trị di sản văn hóa về những giá trị của “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ” về những vấn đề chung quanh sự kiện này.

UNESCO không vinh danh tín ngưỡng mà vinh danh giá trị văn hóa

– Thưa bà, chúng ta vô cùng vui mừng trước thông tin, hồ sơ về Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ được Ủy ban Liên Chính phủ Công ước UNESCO 2003 nhanh chóng thông qua mà không bị chất vấn, tranh luận. Vậy, hồ sơ này đã thuyết phục được Hội đồng UNESCO như thế nào?

-Việc vinh danh này nhằm mục tiêu nhận diện giá trị văn hóa của Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu cùng với các cộng đồng là chủ thể, có tính đại diện. Họ đã thực hành di sản lâu đời, được trao truyền qua nhiều thế hệ. Nay họ đề cử và tự cam kết bảo vệ bằng kế hoạch chương trình cụ thể. Hồ sơ của chúng ta đã đáp ứng tất cả các tiêu chí đó vì vậy ngay từ vòng 2, vòng thẩm định của Ban Tư vấn, hồ sơ đã được đồng thuận 100%. Khi Ủy ban xét lần cuối ngày 1-12 hồ sơ này đã ngay lập tức được thông qua.

Hồ sơ “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ” được UNESCO công nhận trước hết là ở giá trị tập quán/tục thờ Nữ thần. Các vị thần là nữ tượng trưng cho thiên nhiên (Lửa, nước, đất, cây). Những nhân vật khác được thờ trong tín ngưỡng thờ Mẫu là những nhân vật có thật trong lịch sử hoặc chỉ có trong truyền thuyết nhưng được người Việt tin, thờ và trao truyền tập quán đó. Đó là giá trị văn hóa có tính biểu tượng trong tập quán thờ nữ thần và các nhân vật khác là anh hùng, người có công đối với đất nước.

Tín ngưỡng thờ Mẫu được vinh danh ở khía cạnh thứ hai, bởi đó là một nghệ thuật trình diễn tổng hợp có âm nhạc, bài hát, điệu múa, trang phục, có các đạo cụ, lề lối trong trình diễn cùng những thực hành văn hóa như ăn trầu, uống rượu, dâng hương, phát lộc hoặc lắng nghe lời thỉnh cầu, giao tiếp với cộng đồng… Tất cả những cái đó là giá trị văn hóa. Đâu đó có trong các nghệ thuật trình diễn khác của Việt Nam cũng có, nhưng nó đã được hội nhập, tích hợp và sáng tạo ở tín ngưỡng này tạo thành giá trị văn hóa đặc sắc – Lên Đồng.

Giá trị văn hóa của thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa việc trình diễn với thể hiện quy tắc ứng xử trong văn hóa tâm linh. Các thực hành nghi thức tín ngưỡng thờ Mẫu như một vở kịch có lớp lang, được trình diễn theo thứ tự bởi ý niệm, bởi thực hành với sự thay đổi âm nhạc, ca từ, nghi lễ, khăn áo, đạo cụ và cách thức trình diễn.

Ngoài ra không thể không kể đến giá trị văn hóa của nghệ thuật điêu khắc, hội họa, trang trí, thêu may trong điện thờ, trong trang phục và đồ lễ.Như vậy, chúng ta phải nhìn nhận rõ, UNESCO không vinh danh tín ngưỡng, vinh danh dưới góc độ tôn giáo hay tâm linh mà vinh danh dưới góc độ văn hóa của tín ngưỡng thờ Mẫu đó là tri thức dân gian, ngôn ngữ truyền khẩu, nghệ thuật tạo hình, trang trí, âm nhạc, ứng xử, giao tiếp với công chúng… Đó chính là ghi nhận những sáng tạo văn hóa của cộng đồng đã không ngừng được tiếp nối và được bảo vệ, giữ gìn cho đến ngày nay.

-Trước và trong quá trình “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ” được lập hồ sơ trình UNESCO, cũng có không ít quan điểm trái chiều về việc hầu đồng – nghi thức hạt nhân là mê tín, dị đoan và đang bị biến tướng. Hành trình để chinh phục được UNESCO có gặp nhiều gian nan không, thưa bà?

– Trước năm 1990 khi chưa có sự đổi mới toàn diện về các mặt thì có những quan niệm cho rằng thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu là lạc hậu, thậm chí bị quy chụp là mê tín, dị đoan. Sau này với nhận thức đổi mới về văn hóa, khi hội nhập đời sống văn hóa thế giới, chúng ta thấy thực hành tín ngưỡng này có những giá trị văn hóa rõ rệt, được nhiều cộng đồng duy trì, trao truyền vì thế chúng ta đã thực sự nghiêm túc đánh giá để có một thái độ ứng xử bình đẳng như đối với các thực hành tín ngưỡng khác..

Nhưng từ thực tế, nhiều người vẫn băn khoăn, tại sao lại đốt nhiều vàng mã, tại sao có những giá hầu rất nhiều tiền lộc được phát ra, tại sao lại có thể bỏ nhiều tiền để thực hiện một vấn hầu? Đó là câu hỏi cần thiết mà các nhà nghiên cứu phải tìm hiểu và chính các chủ thể đang thực hành tín ngưỡng này sẽ cho chúng ta câu trả lời.

Sau khi “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Định” được ghi nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2013, Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định cùng với cộng đồng đã đề nghị Bộ VHTT và Du lịch trình Thủ tướng cho phép xây dựng hồ sơ “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” vào năm 2015 để trình UNESCO, khi đó cũng đã đặc biệt lưu ý làm sao vinh danh thật sự đúng ý nghĩa của Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu. Quá trình nghiên cứu và làm hồ sơ trong vòng 5 năm qua cũng là điều kiện để nâng cao nhận thức của cộng đồng và toàn xã hội về bản chất, giá trị và ý nghĩa của việc bảo vệ nó.

Do vậy, UNESCO ghi nhận “những thực hành văn hóa liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu”. Việc vinh danh này không nhằm so sánh cao thấp, hơn kém về giá trị với các thực hành tín ngưỡng tôn giáo khác và không cho phép dùng danh hiệu đó vào mục đích lợi nhuận cá nhân, gây phiền phức đối với các tín ngưỡng khác.

Vâng, như bà vừa nói, những gì đang được nhận diện là biến tướng của nghi thức tín ngưỡng thờ Mẫu mà hạt nhân nằm ở nghi thức hầu đồng? Các giá đồng, hầu đồng tràn lan với những khoản tiền thật rất nhiều có phải là một sự biến tướng. Bởi nếu điều đó được tự do phát triển thì liệu có ảnh hưởng tới giá trị di sản mà chúng ta vừa được ghi nhận?

– Theo tôi chúng ta rất cần có biện pháp để ngăn ngừa những hệ quả không mong đợi từ việc vinh danh: đó là việc ngộ nhận về danh hiệu. Như tôi đã nói phần trên thực chất là UNESCO ghi nhận những giá trị văn hóa được sáng tạo bởi cộng đồng. Vậy phải làm rõ giá trị đó là gì để bảo vệ. Thứ hai là lạm dụng việc thực hành, trình diễn để trục lợi. Cũng phải có cách nào đó để nhận diện, xử lý vấn đề này.

 

Cộng đồng sẽ có quyết tâm và biện pháp cụ thể hơn để bảo vệ di sản vừa được công nhận với sự tham gia của các nhà nghiên cứu, nhà quản lý văn hóa ở Trung ương, địa phương, các tổ chức xã hội có liên quan.. Nên có các hình thức cộng đồng liên kết, chia sẻ, hỗ trợ để cùng thực hành văn hóa một cách đa dạng.

“Phải có sự cân bằng, hài hòa để phát triển di sản”

– Thưa bà, trước những hiểu biết chưa đúng về thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu, làm thế nào để chính cộng đồng nhận diện được những gì bị coi là biến tướng của hầu đồng và làm sao để không bị rơi vào tình trạng thương mại hóa nghi lễ hầu đồng?

Quan trọng nhất là họ và nhận thức của họ. Phải chính cộng đồng chỉ ra cho nhau, uốn nắn cho nhau. Những thanh đồng sẽ phải tự trao truyền cho nhau để thực hành cho đúng phép tắc và phản ánh đúng giá trị văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu. Sẽ không có nhà quản lý nào đứng ra chỉ được người nào thực hành đúng, người nào không thực hành đúng. Chính cộng đồng phải tự nhận diện làm thế nào là đúng, tự bảo ban nhau nên làm thế nào.

Với việc có danh hiệu này các nhà nghiên cứu văn hóa, các nhà quản lý văn hóa sẽ chú ý hơn nữa đến khía cạnh bảo vệ văn hóa. Làm sao có những người trao truyền xứng đáng để kế thừa giá trị cốt lõi của nghệ thuật trình diễn trong Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu hoặc những giá trị văn hóa khác. Muốn giữ được giá trị đó, nhà nghiên cứu phải cùng cộng đồng nhận dạng đâu là giá trị và đâu là sự biến đổi mà không phải là giá trị. Từ đó, cùng nhau gìn giữ và quảng bá để mọi người cùng hiểu giá trị văn hóa cốt lõi của tín ngưỡng thờ Mẫu.

Về việc đốt vàng mã hoặc sử dụng quá nhiều tiền để mong lợi ích đặc biệt cho riêng mình thì đó là thuộc về niềm tin, tín ngưỡng, không thể áp đặt mà chỉ giải quyết được bằng việc nâng cao nhận thức, tự nhận thức. Ai cũng phải lao động, học tập, phấn đấu thì mới thành công được. Tâm linh cho ta niềm tin, ý chí nhưng không có hành động thì không thể gặt hái thành công.

-Theo bà, khi Nghi thức tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ được UNESCO vinh danh, chúng ta cần phải có biện pháp bảo tồn như thế nào?

– Thứ nhất, cần có những cuộc thảo luận với cộng đồng thực hành tín ngưỡng này về bản chất của việc vinh danh, trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi nhóm, của cá nhân. Cần gắn kết cộng đồng thực hiện mục tiêu chung này. Qua đó sẽ loại trừ những biểu hiện không tích cực, làm ảnh hưởng đến cộng đồng chung và danh hiệu.

Thứ hai, các cơ quan quản lý khuyến khích các nghệ nhân phát huy vai trò của mình, gương mẫu trong thực hành để vừa bảo vệ di sản, vừa thực hiện được nhu cầu tâm linh của mình. Phải có sự cân bằng, hài hòa để phát triển.

Thứ ba, các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu cùng với cộng đồng xây dựng một số nhóm nòng cốt/các bản hội để tiên phong hoạt động như một mô hình bảo vệ di sản. Ở đó sẽ đi sâu vào các hoạt động: tọa đàm để nâng cao sự hiểu biết, để gắn kết cộng đồng; giới thiệu di sản; hoạt động từ thiện xã hội… Các nhóm này làm tốt sẽ có ảnh hưởng lan tỏa chung. Ở Hàn Quốc nhóm Kut tương tự như của ta có 5 cộng đồng như vậy.

Thứ tư, nhà nước cần có những nghiên cứu, đánh giá thường xuyên để nắm được những thay đổi của thực hành này cả tích cực và không tích cực để có biện pháp kịp thời phát huy hoặc điều chỉnh. Đó chính là vấn đề của phát triển bền vững.

Thứ năm, cần thiết nhất là nắm được các chủ thể văn hóa là những người đang thực hành di sản bao gồm thủ nhang, pháp sư, đồng đền, cung văn, người phụ lễ… Họ nhận thức, thực hành chuẩn văn hóa thì mọi thứ đều chuẩn.

Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Nhỡ thực hành nghi lễ
tại Phủ Phúc Sinh Trường (Thái Thụy, Thái Bình) – Tác giả ảnh: Nguyễn Á

– Hiện nay, trong phát huy di sản, có việc sân khấu hóa nghi lễ hầu đồng Tam phủ, Tứ phủ được nhiều đơn vị mạnh dạn thử nghiệm. Bà đánh giá thế nào về những hình thức sân khấu hóa này?

– Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu có nhiều giá trị đặc sắc nên việc khai thác, sáng tạo ra những sản phẩm văn hóa mới thuộc hình thức nghệ thuật khác là chuyện bình thường và nên làm. Từ Quan họ, Ví giặm, Chèo cũng đã sản sinh nhiều bài hát mới có giá trị đó thôi. Nhưng chúng ta phải rõ ràng trong câu chuyện này, trước hết phải tôn trọng và biết tri ân những chủ thể đã sáng tạo, trao truyền và gìn giữ văn hóa đó.

Chúng ta nên khuyến khích vì các sáng tạo mới đó cũng là một cách giới thiệu di sản, làm cho di sản thêm sức sống. Những sáng tạo ấy sẽ là rất tốt nếu họ có sự liên kết với cộng đồng, để cho cộng đồng cơ hội tham gia vào những sáng tạo đó để nhận diện những giá trị văn hóa cốt lõi của họ, để không bị mai một, sai lệch. UNESCO luôn lưu ý đến việc trân trọng văn hóa cộng đồng bằng cách trả lại cho cộng đồng những giá trị tương xứng khi khai thác sử dụng di sản của họ. Có thể không phải là cách trả sòng phẳng như việc sử dụng bản quyền, nhưng nên có sự thỏa thuận hoặc ngầm hiểu đó là sự hỗ trợ trở lại cho cộng đồng để họ có thể bảo vệ di sản của họ tốt hơn.

Tôi cho rằng, nếu mai kia có cơ hội đưa di sản ra nước ngoài thì nên nghĩ đến cộng đồng chủ thể để họ được giới thiệu văn hóa của họ. Hoặc nếu có sân khấu hóa thì cũng phải nói rõ ràng, đây là sáng tạo trên cơ sở nghiên cứu thực hành của ai, cộng đồng nào và sáng tạo ở chỗ nào chứ không thể phớt lờ cộng đồng.

Về sự trường tồn của nghề hát Then

1. Một vài khái niệm về hát Then và cây tính (còn gọi cây đàn Then)

Hát Then là một hình thái nghệ thuật do nhân dân lao động sáng tạo từ khi có lao động tập thể (có cộng đồng) nảy sinh nhu cầu bộc lộ và giao lưu tình cảm. Nói hát Then là nói hai phần : phần lời (là chủ yếu) phần nhạc đệm lời khi hát (là phần cần thiết). Ban đầu người ta vẫn hát nhưng chưa có tên gọi cho loại hình hát và cây tính đệm lời.

Nhạc cụ tất nhiên có người làm ra đầu tiên. Người ta làm ra nó bằng những vật liệu dễ kiếm: một quả bầu khô trên giàn trước sân, một ít dây tơ lấy từ cuộn tơ còn mắc trên khung cửi, một đoạn cành dâu thẳng ở bờ dậu rào vườn. Một người làm ra cái đàn, gảy lên nghe hay, nhiều người cùng tiếp tục sản xuất và sáng tạo, cải tiến làm nên cây tính ngày nay. Cây tính có từ xa xưa lắm. Một bài hát cổ có nhắc tới cây tính còn ngân nga mãi đến bây giờ:

Tính vuồn tính khát sai tả coóc

                   Mèng vuồn mèng hăn bioóc dạn thom…

(Đàn buồn, đàn đứt dây buông phím

Ong buồn, thấy hoa nở làm ngơ…)

Người Tày nói “tói tính” có nghĩa là “gảy đàn” (cái thứ đàn của người Tày ấy), cho nên có ai lỡ nói “gảy đàn tính” sẽ có nghĩa là “gảy đàn + đàn” trở nên vô nghĩa. Ngày nay ta đã quen gọi cây tính là “cây đàn Then”, cho nên ta nói “gảy đàn Then” là thuận tai.

Nói về bài hát Then (tên bây giờ ta gọi, xa xưa chưa có tên) vốn dĩ có
hai luồng:

– Luồng dân gian: chủ yếu giải tỏa tình cảm. Có từ lâu đời, đã phát triển, đang tồn tại và tiếp tục phát triển.

– Luồng cúng bái: phát sinh và phát triển khi dân gian xuất hiện nhu cầu giải tỏa tâm linh. Luồng này phát triển sẽ  thành nghề hát Then cúng bái.

Nghề hát Then mà bài nghiên cứu này muốn tìm hiểu sự trường tồn của nó là nghề hát Then cúng bái (chant culturel).

 2. Thăng trầm của nghề hát Then cúng bái

Nghề hát Then cúng bái hình thành từ lâu đời, nhưng nhiều công trình nghiên cứu cho rằng nó ổn định, phổ biến và phát triển mạnh từ cuối thế kỷ XVII khi trình độ hiểu biết của dân chúng về khoa học chưa cao, điều kiện thuốc men thường chỉ là dùng cây thuốc thảo dược theo kinh nghiệm dân dã.

Trong nông thôn ở đầu bản làng nào cũng có một ngôi miếu nho nhỏ gọi là Thọ công (thổ công) để thờ thần làng bản, với mong muốn “nhân khang vật phụ” (như mấy chữ đại tự trưng ở Thọ công). Gốc cây cổ thụ, bến nước, mỏ nước (giếng phun)… đều có chỗ cắm hương cúng bái. Mồ mả trên sườn núi người ta cũng san một chỗ gọi là sân thờ sơn thần… Nghĩa là trong tín ngưỡng dân gian vẫn công nhận là ở thế giới khác dương gian có lực lượng siêu nhiên ma quỷ. Với tổ tiên cũng có thế giới riêng huyền bí tồn tại hồn phách các cụ. Gia đình nào cũng lập bàn thờ tổ tiên, các ngày sóc vọng thắp hương tưởng nhớ cúng bái đều kỳ. GS.TSKH Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đã từng phát hiện: “Tất cả  các dân tộc Việt Nam đều tin rằng người chết sẽ tiếp tục sống ở thế giới tổ tiên. Điều đó thể hiện về một nguyện vọng đối với sự bất tử của con người”[1]. Cho nên, có thể nói, gần bốn thế kỷ nghề hát Then cúng bái thịnh hành (cuối XVII – nửa đầu thế kỷ XX). Người chủ lễ hát Then sẽ là cô Then và anh Giàng (gọi chung là Then) chủ trì khi được gia đình “có việc“ mời đến giúp giải hạn hoặc làm lễ kỳ yên… Then sẽ là người (tiếp thu kinh nghiệm và thói tục dân gian) có khả năng giao tiếp với tổ tiên, thần linh, ma  quỷ… đứng ra làm lễ cúng bái.

Khi đất nước chuyển sang một chế độ chính trị mới (Dân chủ cộng hòa rồi Cộng hòa xã hội chủ nghĩa) trình độ nhân dân được nâng cao dần. Có một thời, ấy là vào những năm cuối thập kỷ 50 đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước, ngành văn hóa Cao Bằng có nhiều hoạt động tích cực để khôi phục và chấn hưng văn hóa. Các từ ngữ lần đầu xuất hiện như “bình cũ rượu mới – chống mê tín dị đoan – bài trừ hủ tục trong ma chay cưới xin” v.v… Riêng với đội ngũ làm Mo, Then, Tào, Bụt được các cấp chính quyền giám sát vận động không hoạt động, đồng thời tổ chức mời các vị lên huyện tập trung học tập nhận ra mặt tiêu cực của nghề cúng bái. Các vị làm nghề cúng bái đều nhận thấy cái vô lý, cũng như nhiều cái không lý giải được, nên đã tự nguyện tự giác bỏ nghề, nộp nhạc cụ, nhạc khí cùng các pho sách từ cổ xưa truyền lại ghi chép những bài cúng bái bằng chữ Hán Nôm… Nhưng rồi chừng hai mươi năm sau – khoảng những năm đầu thập kỷ 80 (cũng ở thế kỷ trước) – nghề cúng bái lại xuất hiện dần dần, đội ngũ làm nghề ban đầu còn ít, dần dà đông đảo, hoạt động ban đầu bí mật (làm lễ vụng trộm) rồi cũng công khai dần. Có ai bắt gặp, hỏi han dọc đường, các thầy Giàng cô Then nói vui là “đi làm văn nghệ ”. Các nhà làm nghề hát Then được đón rước bằng xe máy. Nhạc cụ, nhạc khí có vỏ, có bao khâu rất đẹp. Đến hôm nay, nghề Mo, Then, Tào, Bụt đã hiện diện tồn tại công khai trong đời sống xã hội.

Tại sao nghề hát Then cúng bái tồn tại? Và sẽ tồn tại đến bao giờ? Lý giải vấn đề sự tồn tại của nghề hát Then là một vấn đề thú vị.


3. Hát Then cúng bái có phải tôn giáo không?
Liệu đến bao giờ nghề hát Then có thể mất?

Đọc các văn bản sưu tầm được về hát Then ta thấy nội dung lời văn phảng phất tư tưởng, triết lý tôn  giáo.

Thứ nhất, hát Then có quan hệ với đạo Phật không?

Người Tày thường gọi nghề Then là Pụt, Vủt (hay Vỉt biến âm Pụt). Từ ấy chắc là biến âm từ từ nguyên có nguồn gốc tiếng Ấn Độ phiên theo tiếng Anh là Buddha, tiếng Pháp viết Bouddha. Chữ Bắc Kinh có viết ta đọc theo âm Hán Việt là Phật nhưng tiếng phổ thông Bắc Kinh lại đọc là Phỏ[2] (trong khi đó dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc lại gọi là Mật). Cho nên ta có thể hiểu tiếng Vủt (hay Pụt) của tiếng Tày có nguồn gốc với tiếng Phật.

Triết lý đạo Phật trong bài hát Then thể hiện khá rõ. Ngay thuyết luân hồi được tô đậm trong lễ “Tiến hoa thánh mẫu”. Trong xã hội cũ nạn hữu sinh vô dưỡng khá phổ biến, với trình độ hiểu biết về khoa học cũng như điều kiện thuốc men thiếu thốn, các thiếu phụ chịu thiệt thòi về hạnh phúc. Người ta đã nghĩ ngay rằng bởi Mẹ Hoa cho ta con, ban cho ta bông hoa bạc hoa vàng, hoa vàng là con trai, hoa bạc là con gái; Mẹ ban cho con xuống trần gian, có lúc mẹ lại đòi về. Người mẹ trẻ đẻ bảy con mà không nuôi được con nào. Người ta phải nghĩ đến nhờ Pụt, nhờ Phật, nhờ Mẹ Hoa. Ai nghe lời Then hát đều thấy xót xa. “Mẹ đẻ bảy anh em luân hồi / Người xuống là người lên đi lại / Người trần lo ruột héo xót xa / Ngày ngày giọt lệ sa kêu Mẹ. Không muốn cho con trở lại mường trên, người ta phải làm lễ. Nội dung của lễ là chống lại thuyết luân hồi mà cũng là cầu xin Mẹ nhận lễ đừng thả hoa xuống trần gian lại đòi hoa trở về. Đứa trẻ trở về mường trời trước đây và đứa trẻ ở trần gian bây giờ hãy đoạn tuyệt quan hệ, đừng nhớ đến nhau nữa. Câu hát Then có đoạn: “Chốn này chốn bán con hoang / Nàng này bán con vụng / Chúa (Then) sẽ thăm rừng trúc nơi khác / Tiên (Then) sẽ ngăn rừng trúc đường xấu đường tội / Thứ nhất ngăn bằng dòng nước / Thứ hai ngăn bằng núi cao / Thứ ba ngăn bằng biển lớn / Thứ tư ngăn bằng sông sâu / Thứ năm ngăn bằng đào giếng / Dỡ lấy núi ở Nam Hải để ngăn / Dỡ lấy núi Thái San để chặn / Ba núi nóng như máu / Ba núi nóng như lửa / Lấy cả sắt xuống che / Lấy cả đồng xuống chặn / Keo đi thì Keo lạc lối / Hác đi thì Hác lạc đường / Anh em ở thế gian mát mẻ / Ngày đêm ở, không còn tìm nhau / Không mong đêm mong ngày tìm nhau nữa / Chớ cưỡi ngựa yên vàng xuống tìm / Từ đó hồn không luân hồi về trêu ghẹo (…)”.

Muốn bảo đảm hạnh phúc cho mẹ trẻ, gia đình phải biện lễ mời cô hát Then (hay Giàng) hát những bài “dời non lấp biển”ngăn lối luân hồi của trẻ. Trong bài có nói đến Bụt, đến Thích Ca: “Bay lên núi Kim Quý mây bay / Núi Lân Liệu mây dồn / Núi mỏ nước chảy chứa chan / Lên đường loan Bụt Cả / Núi Thạch Kim Thạch Ngần sáng mắt (…) Một chốc đã thăm chốn ao sen / Ngọc Nữ sai nàng tiên ra đón / Chúa đến cầu Thích Ca / Chúa đến hoa Thích Đế… (Tiến hoa thánh mẫu).

Nhà làm nghề hát Then có một điện thờ, ở giữa có đại tự chữ Hán Phật, bên trên có bức hoành phi Từ bi quảng đại. Các câu đối ở điện thờ thường có là “Vạn vạn tinh binh lai tĩnh nội – Thiên thiên lực sĩ đáo bàn chung”. Lại có câu “Nhất niệm thông tam giới – Nhân luân thấu cửu thiên…”.

Thứ hai, với đạo Nho, lời hát Then thể hiện thế nào?

Tư tưởng Nho giáo có đủ trung hiếu tiết nghĩa. Điển hình nhất là khúc hát về “Thằng cu Vỉnh”. Nhà Vỉnh có hai mẹ con. Một lần Vỉnh đi chăn trâu ngoài đồng nội, Vỉnh thấy con trâu cái đẻ con thật vất vả khổ cực. Chiều về Vỉnh kể mẹ nghe, mẹ nói mẹ đẻ và nuôi con còn vất vả gấp trăm lần. Bà mẹ kể Vỉnh nghe, chỉ nói mỗi chuyện mang thai đã vất vả như thế nào: “Ôi thôi, Vỉnh, thôi thôi /Trâu đẻ con còn dễ / Ngày trước mẹ mang thai khó gấp mấy / Mang trong tháng thứ nhất / Mới thấy mỏi thấy mệt / Mang đến tháng thứ hai / Ngày đêm lo trong dạ / Trót có lúc thở dài / Mang đến tháng thứ ba / Xuống sàn mẹ vịn thang / Đi xa phải mang gậy / Mang đến tháng thứ tư / Thấy chiếu mẹ muốn nằm / Thấy gối mẹ muốn ngủ / Mang đến tháng thứ năm / Thấy bố mẹ ngại thưa / Thấy chồng không muốn nói / Mang đến tháng thứ sáu / Thấy cựa quậy trong thân / Thấy nằm ngang trong bụng / Mang đến tháng thứ bảy / Chồng biết điều biết nghĩ  / Chồng biết quý biết khôn / Đón Then về giải buồn / Người mẹ thấy nhẹ nhõm vui vui / Mang đến tháng thứ tám / Nắng ra mẹ muốn hong / Nắng hồng mẹ muốn sưởi / Mang đến tháng thứ chín / Khác nào mang quan tài trong thân / Hồn mẹ chơi dọc đường còn về chăng? / Mang đến tháng thứ mười / Đến khi đẻ thì đẻ / Đến lúc sinh thì sinh… (Thằng cu Vỉnh). Một hôm trước khi đi làm, buổi sáng mẹ báo con biết mẹ ốm không dậy được. Trưa về Vỉnh nấu cháo mẹ ăn, mẹ không dậy nữa, đã chết. Làng xóm biết tin mang dao, thạ đến chia thịt, Vỉnh nghĩ công lao mẹ đẻ con, thương mẹ, phải vái lạy xóm bản: “Vái lạy Vỉnh rằng xin / Vỉnh rụt cổ sụp lạy / Nói ngày trước mẹ đẻ khó thay / Mẹ ngã cháu còn kiêng / Mẹ chết cháu còn để tang / Cháu sẽ mổ lợn nhỏ để đền thịt / Giết lợn bé để cho thịt / Mọi người bỗng nhiên êm dạ / Mường dưới mới kéo về / Mường trên kéo về bản…”.  Lòng hiếu thảo đã động tâm nhiều người.

Trích dẫn trên khiến ta suy nghĩ, lòng hiếu thảo là cái đức tính vốn có của con người, là tình mẫu tử cố hữu. Khi xã hội chuyển dần sang thời kỳ phong kiến có Đạo Nho, lòng hiếu thảo được củng cố vững bền thêm, trở thành một trong bốn đạo đức trung hiếu tiết nghĩa của đạo Thánh hiền.

 Thứ ba, nói về Đạo Giáo trong hát Then ?

Ta thấy ngay những nghi thức cúng bái đã biểu hiện rõ nghề hát Then mang nhiều yếu tố đạo Giáo. Nhưng về nội dung đạo Giáo lúc này không còn nặng về chăm chút triết lý sâu xa huyền diệu mà chỉ còn mang ý nghĩa luân lý. Khi cúng bái người hát Then hướng lên bề trên là ai? “Lạy lên đức mình vàng ngôi sang / Là Tam Thanh Tam Bảo / Bắc cực trấn thiên / Chân vụ huyền thiên thượng đế (…) Lạy lên đức Khoăn Hảo, đạo Khoăn Gường / Ngũ đại nguyên sư Đặng Triệu Mã Quang Khang…” (bài Then Soạn lễ vào cung Ngọc Hoàng). Đã thờ Tam Thanh lại còn thờ Tam Bảo là nghĩa làm sao? Tam Thanh là Ngọc Thanh (Ngọc Hoàng) Thái Thanh (Thái thượng lão quân), Thượng Thanh. Ngũ đại nguyên sư là Đặng Triệu Mã Quang Khang… là các bậc được tôn thờ của Đạo Giáo. Tam Bảo là Đạo Bảo, Kính Bảo, Sư Bảo là các vị được tôn thờ bên Phật Giáo. Đang dọn lễ vào cung Ngọc Hoàng (bên Đạo Giáo) lại có cả Tam Bảo (bên Phật) có nghĩa là lẫn lộn tôn giáo.  Nghề hát Then (và những bài hát Then) theo tôn giáo nào không rõ. Thậm chí họ còn gọi Thích Ca là Mẹ Thích Ca. Tóm lại qua bài Soạn lễ vào cung Ngọc Hoàng ta thấy rõ Hát Then không là đạo Phật, cũng không phải đạo Giáo.

Khảo sát nghề hát Then theo ba tôn giáo Phật giáo, Nho giáo, Đạo Giáo, ta thấy đạo nào cũng được nghề hát Then thu nhận ít nhiều khác nhau. Nhưng đậm nét hơn có lẽ là Phật. Vì thế chăng mà ta gọi người hát Then là Pụt, là Vủt (cận âm với Buddha – gốc Phật). Còn người đàn ông làm nghề này  người ta gọi là Giàng. Từ khi có nghề hát cúng bái (chant culturel) ta gọi người làm nghề cúng bái cùng chung một tên là nghề hát Then.

Nói rằng những yếu tố Phật khá đậm nét trong hát Then, nhưng các Pụt, Vủt, Giàng không am hiểu về đạo Phật. Hàng ngày họ không tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tọa thiền như các phật tử. Thậm chí họ gọi Thích Ca Mầu Ni bằng cái tên là Mẹ Thích Ca: “Con đã tìm của về / Gường nay biện được lễ / Kiếm được bó hương quế, ôm hương thơm / Kiếm được vò rượu Lìn / Tìm được bình rượu Hỏa / Nấu được ba mâm bánh, năm mâm chay / Cỗ gói trầu lên gửi / Phong quả lên mời vua Ngọc Hoàng / Gói trầu thơm lên mẹ Thích Ca…” (bài Then Soạn lễ vào cung Ngọc Hoàng). Họ không cần biết Thích Ca là thái tử Siddhartha, con trai vị vua một xứ ở nước Nêpan (Phía bắc Ấn Độ) dưới chân núi Himalaya hùng vĩ. Vào năm 563 TCN, khi sắp đến ngày lâm bồn, hoàng hậu Maya Devi (vợ vua Tịnh Phạn) xin nhà vua cho phép mình rời hoàng cung trở về quê nhà tại vương quốc Devahada để sinh con đầu lòng theo phong tục và truyền thống xứ này. Khi rời khỏi kinh thành chừng 25 cây số, ngang qua một khu vườn xinh đẹp tại làng Lumbini, thái tử Siddhartha được sinh hạ dưới gốc cây Vô Ưu[3].  Về sau Siddhartha tu tâm khổ luyện tìm ra triết lý thoát tục thành Buddha. Lumbini trở thành nơi linh địa đã sinh ra đức Buddha Sakya Muni (Phật Thích Ca Mầu Ni).

Đạo nào cũng có thánh địa như Vatican của Thiên chúa giáo, Benares của Ấn Độ giáo, Mecca của Hồi Giáo, Jerusalem của Do Thái Giáo, Lumbini của Phật Giáo… Những người hát Then không biết thánh địa đạo Phật, không am hiểu triết lý của Phật Giáo. Cho nên nếu cố gắng tìm đặt cho nghề hát Then tên một tôn giáo phù hợp cũng khó.

Về ảnh hưởng của chủ nghĩa hay triết lý trong hát Then không thể phân rành mạch là Phật giáo hay Đạo giáo. Mà cái rõ nhất trong hát Then là chữ Hiếu, chữ Đễ của Nho giáo, chữ Thiện trong Phật giáo, là tín ngưỡng dân gian tin vào những điều dị đoan, bùa bèn, khấn âm dương của Đạo Giáo thời kỳ suy đồi…

Mọi quan niệm và hành động đều được dân gian hóa, nghĩ rằng tốt thì làm, xấu thì bỏ. Dân gian hiểu biết quá ít ỏi về tôn giáo cùng triết lý của nó, đồng thời hiểu quá ít về khoa học nên chỉ có nhu cầu thông qua cúng bái để quan hệ với thần linh, ma quỷ, với tổ tiên.

Tựu trung lại là nghề hát Then chưa đạt đến trình độ một tôn giáo. Bởi vậy tìm nguồn gốc của hát Then chỉ nên tìm ở tâm linh dân gian. Dân gian vẫn tin rằng con người có phần xác và phần hồn. Mà khi các bậc tổ tiên đã khuất vẫn luôn phù hộ độ trì con cháu. Khi người ta cần sự giúp đỡ của tổ tiên đều thắp hương lên và khấn vái. Cô Then khi làm lễ hát đến bài Xỉnh đẳm(mời tổ tiên) tổ tiên hiện về nói chuyện với con cháu, nghe đúng giọng nói người đã khuất… Hát Then nằm trong phạm trù tín ngưỡng dân gian. Nội dung hát Then là tâm linh dân gian. Vậy là dân chúng nhờ vả đến nghề hát Then chỉ để giao tiếp được với thế giới của thần linh cũng như tổ tiên.

Hát Then chỉ là một sinh hoạt thuộc về tâm linh dân gian, cho nên nó tồn tại lâu dài, vì Lời Hát Then là di sản văn nghệ dân gian, nhất là hát Then lại thuộc về tâm linh dân gian, dân gian còn thì văn nghệ dân gian còn, tâm linh dân gian còn thì nghề hát Then còn.

Mà nếu như nghề hát Then xếp vào loại tôn giáo nào chăng nữa, đến ngày nay cũng chưa ai nghĩ rằng Then sẽ dễ dàng mất đi theo quy luật có sinh có diệt. Tất nhiên vạn vật không thể nhất thành bất biến, nhưng đến bao giờ Then “biến“ thì chưa ai nói được.

Tập thể nhóm viện sĩ khoa học ở một nước khoa học tiên tiến Liên Xô (cũ) cũng đã kết luận: “Những người theo chủ nghĩa vô thần giải thích nguồn gốc tôn giáo một cách duy tâm, như cho rằng một mặt tôn giáo bắt nguồn từ sự dốt nát của quần chúng nhân dân, mặt khác là sự lừa bịp của các cha cố. Do đó họ không thể vạch ra được những biện pháp đấu tranh đúng đắn chống tôn giáo. Họ cho rằng chỉ cần hoạt động giáo dục là có thể thủ tiêu được tôn giáo”[4]. Vì vậy chăng mà vào những năm thập kỷ chín mươi thế kỷ trước, ngành văn hóa Cao Bằng đã có quy định (đăng trên báo Cao Bằng) không đặt vấn đề cấm hát Then mà chỉ quy định lễ hát Then chỉ được thu lễ phí tối đa là bao nhiêu tiền, khỏi có sự lạm dụng thu phí không thống nhất hoặc người hát Then tùy tiện nâng giá cúng lễ khi đi làm Then. Hát Then phục vụ được tâm linh dân gian nên nó vẫn đang tồn tại trong đời sống xã hội.

 

4. Nghề Hát Then tồn tại còn vì nội dung lời hát thể hiện được ý thức,
tình cảm của dân gian cũng như tinh thần nhân văn cao cả.

Những bài hát Then chứa đựng tâm linh tín ngưỡng của dân gian là một trong những yếu tố quan trọng cho sự tồn tại của nghề hát Then.Nội dung nhân đạo, tư tưởng nhân văn của lời hát rất phù hợp ý nguyện dân gian. Ví dụ khi trẻ ốm, ấm đầu, trong tâm linh dân gian nghĩ rằng hồn vía đứa trẻ đi chơi lạc đường về hoặc bị ma quỷ bắt, người ta đã phải nhờ đến Then làm lễ. Then ngồi trước mâm lễ, khấn vái thập phương, hát bài Cống sứ đi tìm vía trẻ khắp nơi. Theo dõi lời cúng bái, ta biết người hát Then đã phải biện lễ đầy đủ, nghĩ rằng phải đi sứ để tìm vía trẻ lạc, chắc phải nạp cống. Ngay lúc khởi hành, đứng ở bến nước, đoàn quân Then đi tìm vía biết bao băn khoăn đứng ở ngã ba ngã bảy đường: “Chúa đến đạo ngã ba đường rẽ / Một dòng  nước đi Khách là xanh / Một dòng nước về Kinh là đục / Một dòng nước đi tới Diêm La / Một dòng nước Thích Ca đến hợp / Vạn dòng nước đi Khách đại bang…”. Thiên nhiên rộng lớn biết bao ngả đường, Then biết đi lối nào tìm vía đây.  Mà tục ngữ ta đã đúc kết rồi “Tìm người như thể tìm chim / Chim ăn bể bắc đi tìm bể đông”. Ấy vậy mà đoàn quân Then cứ lặn lội qua bao miền núi non sông nước, những xứ Tây thiên những miền đất Khách, ngôn ngữ bất đồng (Nghe họ nói không rõ lời nào / Các gái Khách rủ nhau ra ngắm) để đi tìm bằng được. Cuối cùng nạp cống và bái lạy vua thiên nhan nhân đức. Then đã tìm thấy vía của cháu (họ Nông) đối tượng đang cần đi tìm đã “Vái lên quan Khách, trăm quan Nùng / Ngày qua đêm trước / Cháu Nông Mỗ là tên này / Vào thuyền sứ ẩn thân / Vào đò bạc ẩn náu / Không nhớ gì đến nhà cửa Việt Nam / Ngày nay ở dương gian cõi thế / Có bố mẹ về tìm / Cho tôi lên đây tìm / Cho quan lang đến đón / Lấy lễ đến tận nhà / Mang bạc mang tiền về tận chốn / Là cho hồn đón / Cho vía về. Nghe hát đến đây mọi người dự buổi lễ thở phào nhẹ nhõm vì Then đã gặp vía, nay hát tiếp dụ dỗ vía về là ổn thỏa: “Là vía hỡi / Bạc vàng phân chia / Kêu gọi hỡi hồn về  / Nào hồn  vía (Nông Mỗ) / Vào đây tà áo dài / Vào đây vạt áo mới / Ăn gì lớn ta về / Ăn gì rồi cũng lại / Về với bố với mẹ Việt Nam / Về với  anh em trang lứa quê cũ / Hú… vía hồn về…”. Khi nghe hát, mọi người như nhập cuộc đi tìm vía. Cho nên kết thúc buổi lễ hồn vía trẻ lạc đã trở về, mọi người đều thấy ấm lòng hởi dạ như chính con cháu trong nhà mình trở về và tin rằng nó sẽ khỏi ốm.

Dự buổi lễ kỳ yên cho cô gái bị ốm yếu héo mòn vì qua kỳ tháo cái thai chửa hoang, mọi người càng đồng cảm hơn. Lời hát cứ khoan nhặt du dương nói về tội lỗi của người con gái bị ép duyên trong hôn nhân và hình phạt của xã hội xưa vì chửa hoang với người tình cũ, là gọt đầu bôi vôi, là theo chân thầy lý và thằng mõ, đem rao khắp vùng. Mọi người nhìn mà khinh bỉ. Sau đó xóm làng kéo về sân đình ăn khao vì cô gái bị phạt vạ. Đấy là đời thường. Trong lời hát Then miêu tả hình phạt cho cô gái còn kinh dị hơn: “Tiền quân lễ lên lối Nặm Phàng / Tội phá thai theo đường Nặm Khế / Đường đại lộ thượng đế tam quan / Nào ai dung gian dâm hoa nguyệt / Về nhà chồng vẫn nết xấu xưa / Tham hoa nguyệt không ưa chồng mình / Vẫn cứ thói ngoại tình chơi hoang / Gặp gió xuân thật không kịp hối / Tình đã vậy chịu tội chứ sao ? Tẩy thai đi theo đường trai gái /  Lỗi đất trời mất đạo vợ chồng…”. Trong hát Then xử tội ra sao: “Lệnh chỉ sai Cúc Ngần xuống bắt / Phá hoang thai tội nặng chẳng vừa /Ngày ba lần dìm xuống ao nước / Cho đỉa vắt bám vào bú sữa / Máu trả máu cho cái thai xưa” . Hình phạt ngoài tục luật này càng rùng rợn hơn gọt đầu bôi vôi trong xã hội cũ. Buổi lễ  Giải tạ phá thương phá khắc do Then chủ lễ đãmời bà Nguyệt cùng các em Thôm Bon, Thôm Ngoạt, Thôm Chu, em Buôn Nụ mặt vàng, em Buôn Gương mặt nhăn nheo, các em Buôn Liễu, Buôn Hoa, nàng Buôn Gỗ gió trăng, “mời hai nàng Hoa Đào, Dương Liễu / mời đến người Dong Điểu phá hoa… cùng ngồi lại bàn hoa cho rõ / Lời kim ngọc đức cả vua ban”. Đây là vua trong Then. Vua ban thế nào ? Vua giải quyết vô cùng nhân đạo. Vua ra lệnh: “Mọi cuốc xẻng cùng mai lên đường / Người phá thai phải cùng có mặt / Mở thông đường Nặm Khế nước trôi / Phá nước nguồn Nặm Phàng cho dứt / Nặm Khế cạn, cạn thác cạn ghềnh / Nặm Phàng cạn, cát vàng phơi nắng / Lệnh truyền hãy lấy vợt cho nàng / Nếu nước lại dâng cao trở lại / Hãy lấy ống xuống múc cho nhanh / Trừ huyết quang phá thương giải khắc / Huyết bồn không để mắc vào thân / Nếu như đỉa lại bâu vào bám / Nàng lấy vợt xúc hết cho nhanh / Máu đỉa phải chảy tới nơi xa / Đàn đỉa cũng trôi về mường Khách / Đỉa trời không bám môi / Vắt trời không dính cổ / Trời mở sáng con quế ngọc châu…”. Mọi người dự lễ hát Then thở phào cùng xuýt xoa “Ôi nhân đạo quá“. Nội dung hát Then cũng như cách giải quyết sự việc đều theo quan điểm nhân ái như vậy nên hát Then được lòng mọi người, nghề hát Then sẽ trường tồn là vì vậy.

Có buổi lễ Then giải hạn, khi đoàn quân Then đang trên đường đi Khau Các, Khau Gài bài hát Then có mô tả nhiều lần về  quan hệ quân Then (người trần) và tiên nữ. Khi gặp các chàng trai dương thế, tiên nữ thường chủ động bắt chuyện và đã ước ao tha thiết có sự thông cảm gắn bó. Khi đoàn quân Then chèo thuyền đến bến Nặm Kim đã gặp cảnh: “Cất lời ra một khi bến giang? Tiên nữ mở trầu cau bờ bến / Bến này người thường diện qua lại / Được  thấy chúa nam giai phải lòng / Vào ăn trầu với em hãy đi / Cám ơn nàng xe dây thiếu nữ / Anh hãy còn công sự việc quan/ Không  dám ăn trầu cau cùng nàng / Ta còn có việc trạng sai thuyền / Tiên nữ cất lời cười mới nói / Ngày nay mới họa hoằn gặp nhau / Chưa kịp nói những lời trong dạ / Lại mắc vì việc trọng tướng sang / Để em phải ở đơn không chồng”. Người dương gian luôn nhớ đến công vụ nên vẫn tỉnh táo mà khuyên giải nàng để mình dứt khoát ra đi thanh thản: “Em  hỡi chớ lo  toan than thở / Anh còn mắc công vụ việc quan / Xong việc đã hãy toan nàng hỡi / Nghĩa hai ta bè bạn còn  lâu…”.

Cũng cùng hành trình ấy, khi đoàn quân Then đến chặng núi Khau Các, Khau Gài , người trần được nàng tiên mở tiệc đãi đọa, sau những tuần chuốc rượu say sưa, các chư vương trần thế không còn nhớ đến lý tưởng nữa. Khi xuân tình thức dậy giữa hai bên, tiên nữ đã nghĩ đến chuyện như ca dao cổ đã làm “Yêu nhau cởi áo cho nhau / Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay”.Tiên nữ đã tặng áo bạc rất quý giá của mình, chư vương (tức là Then) đã nhận áo lại còn vụng cấu vào tay tiên nữ: “Tiên nữ liền cười nói cùng chàng / Em sẽ cởi áo bạc tặng người /Tiền bạc của kim ngân ai từ / Nếu lấy thì không phải đạo ta /Không lấy thì không hay đạo người / Lấy, ra kẻ cơ hàn bất tri / Không lấy, nên khinh khi của người”.  Đoàn quân Then người trần cũng có sự đắn đo suy tính, làm sao cho đúng đạo lý dân gian, cuối cùng tình cảm đã thắng lý trí, các quan Then (chư vương) nhận áo và giữ khư khư trước mặt ba quân đông đảo: “Chư vương đón lấy áo khư khư / Liền vụng cấu vào tay tiên nữ / Làm ngơ như vô sự, không thưa”. Cái hành động vụng cấu vào tay và vẻ mặt làm ngơ đã nói lên bao điều. Nói rằng quan hệ giữa các nàng tiên với người trần nhưng bài Then muốn nêu lên một vấn đề trong cuộc sống, đó là quan hệ nam nữ trong đời thường, là quan hệ lý  trí và tình cảm, quan hệ giữa lý tưởng và dục vọng con người; đồng thời quan hệ ấy nêu lên suy nghĩ về hạnh phúc lứa đôi trong xã hội (khi mà quy tắc sống của phong kiến là nam nữ thụ thụ bất thân).

Còn bao nhiêu lễ khác như:

– Lễ Bắc cầu xin hoa (Cái cấu xo bioóc,) một cái lễ rất quan trọng với các cô gái về nhà chồng mấy năm rồi mà vẫn chưa có con. Hát Then sẽ bắc cầu xin mẹ Hoa ban phúc.

– Lễ Vía tháng (Khoăn bươn) cho nàng dâu đã có thai vào tháng thứ ba, tháng thứ tám để cầu mẹ Hoa (Bụt Cả) bảo trợ tiêp.

– Lễ Hoa rụng (Bioóc héo) tống tiễn hồn đứa trẻ chết yểu về hẳn với mẹ Hoa đừng bao giờ nghĩ trở lại dương thế (theo luật luân hồi).

– Lễ Chui lầu (Dòn lầu) để cầu mong đứa trẻ được trường sinh bảo mệnh, hồn vía ở lầu cao đài các, tâm hồn sẽ khỏe mạnh vui tươi. Trong buổi lễ đứa bé được mặc áo vàng trên có viết nhiều chữ yểm rất đẹp. Sau lễ này, đứa trẻ được đeo bùa hộ mệnh, khiến già trẻ đều yên tâm.

–  Lễ Con xin (Lủc xo) khi nhận trẻ sơ sinh về nuôi bộ.

Lễ Gọi vía (Roọng khoăn) gọi vía về với thân người ốm.

– Lễ Đi sứ (Pây sử) tìm vía trẻ lạc

– Lễ Nối số (Tâu sổ) cho các đối tượng vào tuổi 49, 61, 73, 85 … để yên ổn vượt qua tuổi hoạn nạn.

– Lễ Chuyển thóc lương (Vẩn khẩu lường) cho các cụ cao tuổi trong chúc thọ v.v…[5]

Lời ca mượt mà hòa vào trong tiếng đàn Then du dương êm ái cùng khói hương thơm lừng, tâm hồn người dự buổi lễ cứ lâng lâng đi theo hành trình đường Then vượt mây vượt gió đến nơi cần cầu xin sự yên lành vĩnh cửu. Và nghề hát Then cứ tồn tại theo lời Then cùng tiếng đàn lâu lâu lại vọng lên từ gia đình nào đó trong thung lũng sâu thẳm, xa lắc…

 

5. Tư cách người hát Then quyết định phần lớn
sự tồn tại của nghề hát Then

Con đường của người vào nghề hát Then thường trải qua vài tuần “phấc”, nghĩa là nhảy nhót, ở không yên, lúc thì gấp hình con én bay, lúc thì cắt hình nhân có lọng vàng, xưa nay gảy đàn không hay nay bỗng nhiên có tiếng đàn tuyệt diệu, miệng thường hát những câu hát trữ tình theo tiếng đàn Then… Rồi người đó hay đi chợ phiên tìm bạn, vẻ mặt lúc nào cũng tươi rói lạc quan. Và sẽ có một phiên chợ nào đó cô con gái muốn vào nghề Then mang lễ vật đến mẹ say (mẹ thầy – một bà Then cao tay trong vùng) xin làm con sở, con hương. Mẹ say nhận cô gái làm gường (có lúc gọi sở, con hương). Từ đó mẹ say (mẹ thầy dạy) đi làm lễ ở đâu đều cho gường, sở đi cùng học tập và được kèm cặp thực tập khoảng ba bốn năm. Một điều lạ là học nghề hát Then không bao giờ dùng sách vở ghi chép bài bản mà là học truyền miệng bằng thuộc mới thôi. Sau đó gường ( hoặc sở) xin mẹ thầy cho làm Lễ hội Dàng Then (Lễ cấp sắc)

Trong Lễ cấp sắc có nhiều lễ nghi, nhưng quan trọng là con gường sở được sát hạch. Xin trích đọc một đoạn sát hạch, có câu hỏi câu trả lời.

– Chén rượu giữ thật chặt

Chén trà đặt lên còn giữ mãi, phải không?

(Không phải thế đâu ạ!)

– Nấu rượu thì mắng chó mèo

Nấu rượu lại mắng mỏ con, phải không?

(Không đâu ạ!)

– Diều hâu bắt vịt bắt gà đi xua đuổi

Hổ bắt lợn trong ruộng thì đuổi, có đúng không?

(Làm vậy đúng ạ!)

Trâu ngã, gường đi xả thịt

Nhà người gường đi rỡ, phải lẽ chăng?

(Không đi đâu ạ!)

Bến rửa đầu nhà sàn, sở đi chui qua dưới

Nơi thắp hương dưới sàn, sở  bước qua trên hay sao?

(Không đi đâu ạ)

– Người ta đang làm lễ nhà có tang

Gường nghênh ngang bước qua trước đám, nên chăng?

(Không bao giờ ạ)

– Thịt còn treo để vách

Cá còn treo ngoài sào kia, nên chăng?

(Không ạ, thịt cất từ đêm qua

Cá cất từ đêm trước rồi ạ)

Gường ăn cơm ở đĩa thừa

Gường gắp rau ở đĩa ôi thiu, thì sao?

(Không bao giờ ạ)

Đi làm đồng còn mê hoa

Đi làm ruộng còn hái nụ, hay sao?

(Không có chuyện hoa nguyệt bao giờ đâu ạ)

Gường ăn thịt thừa của chó

Gường ăn cá thừa ôi thiu, được chăng?

(Không ạ)

Gường đội nón vào tang

Gường lẫn lộn trai gái thì sao?

(Không đội nón vào tang

Không lẫn lộn trai gái đâu ạ)

Cuộc sát hạch chưa xong nhưng mẹ say (hoặc thầy cả) sơ bộ đánh giá: “Dạ dạ … (…) Tôi sẽ nói thay cho gường / Tiểu Then sẽ thưa cho rõ / Gường vốn thanh khiết luôn / Sở ăn chay vẫn thế / Mồng một gường ngồi ở như mèo / Hôm rằm gường độc thân như vượn / Tháng giêng ngày mồng một / Tháng bảy tết hôm rằm / Người đời ăn thịt ăn cá / Còn gường liếc mắt nhìn bát mẻ chua / Bụng lép như bụng cà cuống / Mắt xanh như mắt ve sầu / Ăn mẻ chua không biết chua / Ngồi không không biết đói / Thanh tịnh với Bụt Cả / Thanh khiết với Bụt Già.

Cuộc sát hạch vấn đáp lại tiếp tục:

 – Lặng lặng

Rộng miệng gường thầm thì nguyền rủa

Dài lưỡi thì đi lừa bịp hay sao?

(Không đâu. Không bao giờ)

 – Rộng miệng thì đi nói dối

Ăn không nhà người ta thì sao?

   (Không bao giờ)

– Rộng miệng thường mắng con ma

Lại đi chê kẻ nghèo khó thì sao?

   (Không đâu ạ)        

Đến đây giám khảo chuyển sang hình thức sát hạch khác: “Nâng gường lên ngang miệng để hỏi / Kéo gường lên ngang vai để lục vấn / Thước năm thốn đo cái bụng / Xích bảy thốn đo cái cổ (tức là tấm lòng) / Đo xuống tận cái ức / Tuốt xuống tận trái tim / Gọi khí trời về bụng / Gọi dòng máu về tim…

Lặng lặng

Nắm cổ để gường thổ

Cầm mồm để gường nhả

(Khạc. Phì)

Bài hát sát hạch gường sở miêu tả và kết luận: “Khạc lên toàn những hơi khói / Nhả ra toàn những sương mù / Tốt lắm thay… / Con bụt còn được như bụt hiền hòa / Con tiên còn được như tiên tha thướt / Con của thuồng luồng ắt giống thuồng luồng sông trên / Con của hổ cũng được như hổ lớn  đại ngàn / Con nhà ấy cũng được như nhà ấy cai quân / Ngày ngày đi quản ngựa được trọn vẹn / Đi cai quân được mạnh / Đồng dưới người ta đến tìm mời / Lối trên người ta đến tìm  đón / Xứng đáng làm Then rồi đây.

Vậy là gường sở này được làm lễ đội mũ và tiếp theo là lễ cấp sắc, một chứng chỉ vào nghề hát Then (viết bằng chữ Nho). Ba năm tiếp theo rèn luyện và tu dưỡng đạo đức sẽ được làm lễ hội nâng cấp lần thứ nhất…

Bấy lâu nay ta ít được tiếp xúc văn bản (hoặc không nghe lời Then hát) mà chỉ nghe tiếng đàn, nhìn khói hương nghi ngút, trông dân gian quây quần xung quanh người hát Then đã cho là mê tín dị đoan thôi. Có được nghe hát và xem những bài hát Then sưu tầm ta mới có suy nghĩ trân trọng về họ.

Có lần TS Phan Đăng Nhật đề nghị không nên gọi sinh hoạt dân gian ấy là “dị đoan”. TS Phan Đăng Nhật viết:  “Không nên dùng  chữ “dị đoan”, vì nó bắt nguồn từ chế độ độc tôn độc tài về tôn giáo; mà chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là tự do tin và tự do không tin, không ai được coi là chính giáo mà quy cho người khác là tà đạo, dị đoan…[6].

Có được nhiều dịp dự các cuộc lễ của Then, nghe Then hát cũng như nghiên cứu văn bản, ta mới hiểu nhân cách của Then. Theo nhóm nghiên cứu Hoàng Quyết, Vương Toàn:“ Then không làm nghề chuyên mua thần bán thánh hay lừa gạt. Bình thường họ là những người lao động thừa hưởng những kinh nghiệm của cha ông, nắm được phong tục tậpquán của dân tộc, nên có vai trò quan trọng đặc biệt là biết hướng dẫn thực hiện các nghi lễ (ma chay cưới xin) nên được người dân tôn trọng và nhờ cậy đến, để có thể “ giao tiếp ” với thần linh, trừ diệt ma quỷ… “[7].

Khi người hát Then được mời về làm lễ, ta nghe những lời Then hát khi mở đầu một đêm làm lễ đến là xúc động. Họ tôn trọng tổ tiên (đẳm), họ là người thay gia đình dâng lễ. Còn người am tường chỉ lối lên trên mường trời phải là tổ tiên, cần tổ tiên sẵn lòng giúp. Tiếng đàn Then đệm lời cứ thánh thót, ngón đàn cứ uyển chuyển, tiếng hát du dương bay vào không gian huyền bí của khói hương: “Nhờ đến cụ tổ cụ tông / cụ cao tằng tổ / Ông bà tổ tiên / Nơi cụ, cụ đi thay / Nhà cụ, cụ đi trước / Đi chỉ nơi chỉ ngõ / Đi chỉ sân chỉ nhà / Dẫn lối lên thượng phương thượng đế / Bởi tiên Then là người hạ thế dương gian / Biết không biết được nhiều / Khôn không khôn được hết / Hay không hay được nhiều / Khôn không khôn được đủ / Cụ tổ cụ tông / Cụ cao tằng tổ / Cụ ông cụ bà / ở thượng phương là biết hơn / Dẫn chúng tôi đi đến chốn / Giải hạn cho con cháu trong nhà / Trong gia tộc đêm nay… (Bái tổ). Trong khúc hát Gọi hương (Roọng hương), Then hát lời rất chân thành: “Con cháu được ăn không quên đũa / Được ở không quên ông / Không quên công tiên tổ….

Đối với bà con xóm bản đang vây quanh dự buổi lễ, thầy Then vẫn chân tình hát: “Hôm nay lo được rượu lễ về dâng / Cỗ bàn về cúng / Trần thế kiếm được về / Trần thế tìm là được / Nhưng khắc lo sợ không lọt / Lọt không tới / Đi gọi tiện Then tận nhà / Đi nhờ tiện Then tận cửa / Cùng tiện Then viết tờ sớ lên thay / Nàng tiên làm quan lang lên báo / Báo cao tổ được hay / Báo thế tổ được biết / Nhưng nơi này thiếu gì người sáng dạ / Lại cho tôi về kính phụng hiếu bang / Tay niệm lạy tướng sang các chúa / Lời nào nói lầm lỡ bảo giùm / Bản thân tiện Then giống như tiêu khách / Vác miệng về dọn tiệc rượu hoa / Bản ta thiếu chi người sáng dạ / Cho tôi về kính phụng hiếu bang / Tay niệm lạy tướng sang các vị / Lời nào không vừa ý xin khuyên / Lời nào không vừa lòng sẽ dạy…” (Gọi hương).

Chưa nói đến nội dung công việc cúng bái, chỉ nghe ngần ấy lời của Then ta đã yên tâm họ không là người buôn thần bán thánh khoác lác kiếm ăn bất lương. Họ đã nhận được niềm tin và sùng bái trong dân chúng.

 

6. Mấy lời kết

– Nghề hát Then cúng bái (chant culturel) là một hiện tượng xã hội đang tồn tại và phát triển rất cần những công trình nghiên cứu khoa học của  nhiều vị cùng tham gia để có được kết luận thỏa đáng.

– Nghề hát Then cúng bái đã trải qua những bước thăng trầm nhưng đến nay nó vẫn tồn tại bởi đây là vấn đề tín ngưỡng và tâm linh của dân gian. Nghề hát Then cúng bái tồn tại được còn vì nội dung lời hát chứa đựng một tinh thần nhân văn cao cả đồng thời những người hát Then cũng là những người có được cái tâm chân thành, nhân hậu.

– Những bài hát Then là những di sản quý báu của văn nghệ dân gian đang cần  được bảo tồn nghiên cứu công bố, phát huy những yếu tố tích cực của nó phục vụ  cuộc sống hôm nay và mai sau[8].

Đừng để văn hóa dân gian ‘biến mất’ trong xã hội hiện đại

Trong xã hội hiện đại, văn hóa dân gian vẫn có vai trò, giá trị, ý nghĩa xã hội riêng của nó. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đang nảy sinh nhiều vấn đề cần xem xét tới vai trò, sự tham gia của văn hóa dân gian như quá trình đô thị hóa, xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ môi trường, du lịch, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, đẩy mạnh giáo dục.
Đừng để văn hóa dân gian ‘biến mất’ trong xã hội hiện đại
Văn hóa dân gian được biết đến trong nhiều thế kỷ, tuy nhiên, văn hóa dân gian ứng dụng (applied folklore) – một phân ngành mới của văn hóa dân gian, lại chỉ được đề cập tới trong mấy chục năm gần đây. Từ những năm 60 của thế kỷ trước, một số nhà văn hóa dân gian trên thế giới bắt đầu áp dụng kiến thức văn hóa dân gian để giải quyết các vấn đề xã hội, như: y học, quy hoạch thành phố, người cao tuổi, phát triển kinh tế, giáo dục đa văn hóa, bảo tồn,… và một số lĩnh vực khác. Về đại thể, có thể hiểu văn hóa dân gian ứng dụng là một phân ngành của văn hóa dân gian, vận dụng các kiến thức, phương pháp nghiên cứu của văn hóa dân gian nhằm giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống đương đại. Ở Việt Nam, văn hóa dân gian ứng dụng tuy còn khá mới mẻ, chưa hình thành một ngành nghiên cứu riêng biệt, nhưng các vấn đề nghiên cứu ứng dụng văn hóa dân gian đã được một số nhà khoa học quan tâm và bước đầu thu được thành quả…

Thực tiễn sinh động ở Việt Nam với đặc điểm có nhiều tộc người chung sống, tính đa dạng đặc thù văn hóa nổi trội nên khả năng ứng dụng văn hóa dân gian giải quyết các nhiệm vụ cuộc sống càng phong phú và cấp bách, nhất là tại các vùng miền núi nhiều dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, công nghiệp hóa, đô thị hóa, nhiều thành tố văn hóa dân gian không còn tồn tại như một thực thể mà như “vỡ vụn” và biến đổi cả cấu trúc, chức năng. Một số thành tố văn hóa dân gian như đã bị mất đi cơ sở xã hội, vì không còn môi trường nuôi dưỡng và phát triển, một số thành tố thì đang phải trải qua một quá trình “giải cấu trúc” (như ý kiến của GS, TS Tô Ngọc Thanh). Tuy như vỡ vụn, song các mảnh vỡ của văn hóa dân gian vẫn tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội đương đại. Các thành tố ngữ văn dân gian, nghệ thuật dân gian, tập quán xã hội, tri thức dân gian, lễ hội truyền thống, nghề thủ công truyền thống,… tuy không tồn tại theo cả một cấu trúc, cả một hệ thống như trước đây nhưng lại trở thành một bộ phận được “tái cấu trúc”, góp phần tạo nên bộ mặt văn hóa của xã hội đương đại.

Ở vùng đồng bằng hoặc đô thị xuất hiện ngày càng nhiều các loại hình văn hóa dân gian mô phỏng với ý nghĩa là các tư liệu, mảnh vỡ, không nằm trong bối cảnh gốc nhưng theo GS, TS Ngô Đức Thịnh lại “gây ấn tượng bằng thị giác và thính giác hoặc mang lại niềm vui thích về mặt thẩm mỹ như trang phục, biểu diễn trong lễ hội, âm nhạc hay ẩm thực, những tư liệu thích hợp này đã tách ra khỏi bối cảnh ban đầu của chúng và để sử dụng theo một cách mới cho một nhóm công chúng khác”. Văn hóa dân gian mô phỏng còn xuất hiện phổ biến với tên gọi văn nghệ quần chúng. Dù đã có nhà khoa học phê phán hình thức nghệ thuật dân gian mô phỏng này nhưng trên thực tế nó lại đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa ở cơ sở, thu hút lượng khán giả đông đảo ở các kỳ hội diễn, các cuộc liên hoan, các “ngày văn hóa”. Đặc biệt ở các điểm du lịch cộng đồng từ Mai Châu, Mộc Châu, đến Mường Thanh, Mường Lò,… Rất nhiều chương trình biểu diễn nghệ thuật (nhất là múa) chủ yếu đều thuộc loại hình văn hóa dân gian mô phỏng. Hiện nay xu hướng khôi phục lễ hội, hoặc tổ chức các lễ hội du lịch đang diễn ra khắp nơi đều dựa vào chất liệu của văn hóa dân gian mô phỏng. Vì vậy, đã làm cho văn hóa dân gian mô phỏng có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần, cần được nghiên cứu dưới góc độ văn hóa dân gian ứng dụng.

Văn hóa dân gian đô thị lại nghiên cứu các thành tố văn hóa dân gian đã thích ứng và “chung sống” với người dân đô thị. Nó tập trung nghiên cứu về đời sống văn hóa của cư dân nhập cư cũng như dân cư “đô thị gốc”. Các yếu tố của văn hóa dân gian (nhất là tập quán, phong tục) đã chi phối đặc điểm cư trú cũng như quá trình “xóa đói, giảm nghèo” của một bộ phận người nhập cư. Đặc biệt, tín ngưỡng dân gian chi phối hầu hết gia đình cư dân đô thị với nhiều hiện tượng khác nhau như thờ “thần tài”, cúng ngày rằm, mồng một, quan niệm “mở hàng” ở các cửa hàng,… rồi phong tục tập quán đón Xuân, mừng nhà mới, cùng với đó là các ngày lễ liên quan tới kỷ niệm lớn của đất nước, lễ hội kiểu mới như “ngày lễ tình yêu” (14-2), lễ Nô-en,… tạo ra môi trường sinh hoạt văn hóa dân gian mới. Như vậy, cần tập trung nghiên cứu cả văn hóa dân gian đô thị, hay nghiên cứu quá trình hình thành các xu hướng thích nghi văn hóa của những nhóm di dân vào đô thị, nghiên cứu các phố nghề, làng nghề ở thành phố hoặc ven các thành phố, các loại hình kinh tế phi chính thức, các đặc trưng văn hóa, nếp sống, sinh hoạt văn hóa của người dân cũng như hoạt động tín ngưỡng -tôn giáo tác động đến đời sống cư dân đô thị. Và khi nghiên cứu văn hóa dân gian đô thị, còn cần chú trọng nghiên cứu sản phẩm nghệ thuật ngôn từ như giai thoại, ca dao, tục ngữ mới xuất hiện, và các phong tục tập quán cũ và mới đang vận hành trong xã hội đô thị… Các nhà nghiên cứu Folklore không phải điền dã ở nông thôn, miền núi, mà tập trung nghiên cứu ở ngay tại gia đình mình, tổ dân phố, ngõ xóm nơi cư trú. Kết quả nghiên cứu văn hóa dân gian đô thị sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý trong công tác quy hoạch, phát triển đời sống kinh tế – văn hóa ở khu dân cư, nắm bắt tâm trạng, nhận thức, thái độ của người dân để điều chỉnh, thực thi chính sách,…

Hiện nay, văn hóa dân gian ứng dụng đóng vai trò quan trọng trong phát triển du lịch. Làn sóng du lịch ồ ạt đổ bộ đến các làng, bản vùng cao.

Nhiều điểm du lịch ở Mai Châu (Hòa Bình), Mường Thanh (Điện Biên), Sa Pa (Lào Cai), Bản Đôn (Đác Lắc),… thu hút rất đông du khách. Chính quyền địa phương đều xác định văn hóa là nguồn lực của du lịch, nhưng khai thác nguồn lực văn hóa (nhất là văn hóa dân gian) như thế nào lại là vấn đề phức tạp. Ở một số tỉnh, thậm chí cả tỉnh miền núi, đều học theo mô hình làng văn hóa dân tộc để đầu tư xây dựng thành điểm du lịch, song không biết rằng du khách (nhất là du khách nước ngoài) không muốn xem một cái làng du lịch mà ở đó từ cảnh quan, nhà cửa đến sinh hoạt văn hóa đều phục chế, làm giả. Như vậy, các hoạt động du lịch ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số (từ quy hoạch, chính sách ở tầm vĩ mô đến việc tổ chức các điểm du lịch, văn hóa) đòi hỏi phải có sự tham gia của văn hóa dân gian ứng dụng. Theo chúng tôi, bất cứ việc quy hoạch hoặc xây dựng sản phẩm du lịch ở đâu cũng cần các nhà văn hóa dân gian ứng dụng tư vấn đánh giá trữ lượng, giá trị tài nguyên du lịch nhân văn, đề xuất phương án khai thác, xây dựng sản phẩm. Phát triển du lịch bền vững đang là định hướng chung của ngành du lịch, đòi hỏi việc khai thác tài nguyên du lịch một cách hợp lý vì lợi ích của thế hệ tương lai chứ không chỉ vì lợi ích của thế hệ hiện tại. Phát triển du lịch bền vững cũng yêu cầu phải xây dựng quan hệ thân thiện với môi trường, bảo vệ môi trường, hài hòa xã hội, bảo vệ lợi ích cộng đồng cư dân bản địa, bảo vệ di sản văn hóa, tôn trọng sự đa dạng văn hóa tộc người. Trong định hướng phát triển du lịch bền vững đòi hỏi sự tham gia tích cực của văn hóa dân gian ứng dụng.

Phong trào xây dựng nông thôn mới đã và đang được triển khai từ miền núi đến đồng bằng, từ vùng người Kinh đến vùng cư trú của dân tộc thiểu số, đã thu được một số kết quả tích cực, xuất hiện nhiều mô hình trở thành điểm sáng ở nông thôn,… Nhưng vẫn còn không ít bất cập, hạn chế, nhất là ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nguyên nhân chủ yếu là các nhà hoạch định chính sách còn thiếu am hiểu thực tiễn ở miền núi, không nắm vững đặc điểm văn hóa dân gian, đặc trưng văn hóa tộc người,… nên đã xây dựng các tiêu chí không phù hợp. Ở miền núi, vùng cao diện tích đất canh tác ít, diện tích mặt bằng để gieo trồng lương thực còn hạn chế, nhưng các tiêu chí nông thôn mới lại quy hoạch, xây dựng các trụ sở, các thiết chế văn hóa thể thao quá rộng dẫn đến tình trạng không xã nào ở vùng cao đáp ứng được tiêu chí “cứng nhắc” như vậy. Dường như các nhà hoạch định chính sách chưa hiểu về đặc điểm sinh hoạt chợ vùng cao, về điều kiện và nhu cầu mở chợ ở vùng cao nên thời kỳ đầu có chủ trương mỗi xã muốn đạt tiêu chuẩn xây dựng nông thôn mới phải xây dựng một chợ của riêng xã đó. Dẫn đến tình trạng nhiều xã đua nhau xây chợ nhưng chợ xây xong lại bỏ hoang, vì người dân không đến họp chợ, hoặc không họp vào điểm chợ được quy hoạch. Tương tự như vậy, các tiêu chí về môi trường, về giao thông, về quy hoạch, về thủy lợi,… có nhiều điểm chưa phù hợp với miền núi, thậm chí là không thể thực hiện được. Trong khi đó rất nhiều vấn đề tri thức dân gian trong sản xuất, quản lý xã hội, bảo vệ môi trường, xây dựng nếp sống,… lại ít được vận dụng và phát huy.

Đất nước đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, rất nhiều kế hoạch, chương trình, đề án, dự án,… được triển khai ở khắp mọi miền. Nhưng các chính sách, kế hoạch, chương trình, dự án này có đến với người dân không, người dân có nhiệt tình tham gia hay không? Các dự án lớn được xây dựng có tác động như thế nào đến đời sống của nhân dân, nhất là những tác động của văn hóa – xã hội ra sao? Những vấn đề như vậy đòi hỏi sự tham gia của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian (cũng như nhà nhân học). Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian với tư cách là người am hiểu nhất về bản sắc văn hóa các dân tộc, am hiểu nếp sống, tri thức dân gian, do đó họ có điều kiện trở thành nhà tư vấn cung cấp các thông tin để xây dựng và thực thi chính sách, kế hoạch, chương trình, dự án; đồng thời, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cũng trở thành người thẩm định, đánh giá kết quả thực hiện chính sách, dự án đó.

Nguồn tin: nhandan.com.vn

Người giữ “hồn” đàn cổ giữa phố thị Cao Bằng

Chúng tôi ghé đến “xưởng” đàn của ông vào một buổi chiều muộn, gọi là xưởng có phần hơi quá bởi nó chỉ là căn mái lợp nằm mãi trên tận tầng 3, lụp xụp và chất đầy những vỏ bầu to nhỏ. Giữa phố thị ồn ã, ở căn nhà đó người ta nghe được tiếng đục, tiếng cưa lách cách, cùng điệu dạo nhạc rân rẩn buồn từ cây đàn Tính. Một chút xưa cũ xen lẫn hoài niệm tiếc nuối về loại danh cầm mang tên “Tính tẩu” để rồi người đàn ông ấy ngày qua ngày mê mẩn, âm thầm gìn giữ những tinh hoa trong nghiệp chế tạo ra nó. Ông là Đàm Văn Đào – một trong những người thợ làm đàn Tính cuối cùng trên thành phố Cao Bằng.
Người giữ “hồn” đàn cổ giữa phố thị Cao Bằng

Nặng lòng với cây đàn Tính

Trong ngôi nhà nhỏ thuộc phường Sông Hiến (thành phố Cao Bằng) nằm khuất nẻo khỏi những ồn ã phố thị, người ta vẫn thấy ông Đàm Văn Đào hàng ngày kỳ cụi đục đẽo những trái bầu già, gọt tỉa chúng thành hàng chục, hàng trăm cây đàn Tính. Đàn chất đầy một xó để rồi ông chẳng bán mà thi thoảng ngồi đánh, nghêu ngao những điệu hát tí tách vui tai.

Khi mới nghe qua, chúng tôi bất giác giật mình và hình dung trong tâm tưởng một ông lão có phần kỳ dị với thú đam mê “chẳng giống ai”.  Ấy vậy mà, có tiếp xúc qua mới thấy mọi sự suy tưởng đã nhầm. Dù ở trong cái ngưỡng tuổi ngoại lục tuần nhưng ông Đào vẫn khiến người đối diện thấy ông còn tráng kiện lắm. Mái tóc pha sương phất phơ điểm những sợi trắng, tay thoăn thoắt đẽo gọt những thớ gỗ chắc lịm cho chúng thành hình, thành khuôn. Trên gương mặt đăm chiêu phúc hậu ấy, ẩn sâu đôi mắt của ông lão toát là lên nét man mác trầm buồn. Ông Đào có cách nói ví von, cách mở chuyện khá thoải mái rằng “đừng hỏi gì vội, hẵng cứ xem tôi làm đã”, để rồi đến khi hợp chuyện ông có thể nói một mạch cả ngày không hết.

Nghe kể, ông Đào mê cây đàn Tính từ thủa nhỏ. Cái sự mê mẩn với loại “đàn 3 dây” cũng có xuất phát điểm từ gia đình. Ông nói tổ tiên nhà ông cũng từng giữ nghiệp xướng ca và làm đàn trong suốt triều nhà Mạc. Để rồi đến đời cha ông Đào, nghề cũ nghiệp xưa chẳng còn, có chăng lúc rỗi rãi ông cụ đem đàn ra gẩy vui, cắt xẻ những quả bầu già cho đỡ quên nghiệp tổ truyền.

Cũng chính cái sự nhấm nhẳng trong nỗi nhớ với cây đàn Tính, cậu bé Đàm Văn Đào thủa ấy đã học mót được cái thứ nghề chân truyền của gia đình. Có độ thanh niên, khoảng năm 1976 khi còn trong quân ngũ Đào nhớ đàn Tính đến mức tự tạo một cây đàn nhỏ rồi đêm đêm tí tách gẩy giải khuây.

Những ngày ấy, ông Đào cầm trên tay cây đàn Tính rồi nghêu ngao hát đủ mọi làn điệu dân ca như một gã lãng du xứ núi. Đồng đội xúm quanh nghe ông hát đông lắm, thế nhưng chẳng mấy ai biết trong tâm tưởng đầy cất nghệ sỹ của con người ấy đang từng ngày bùng cháy lên khao khát làm sống và phổ biến lại loại nhạc cụ tổ truyền mang tên “Tính tẩu”.

Năm 2004 sau khi chính thức nghỉ hưu, ngày ngày sống trong cuộc sống nhàn rỗi, tẻ ngắt, thậm chí nói theo cách của ông là: “Tôi nghỉ làm mà chẳng biết phải làm gì, rầu tay buồn chân lắm”. Thế rồi, trong một chuyến đi qua đèo Mã Phục, thấy bà con bán một quả bầu tròn đã khô, như được tổ tiên nhắc bảo, ông dừng lại hỏi mua để đem về làm đàn.

Ban đầu ông cũng chỉ nghĩ làm vài cây để đánh chơi, trải buồn. Thế nhưng cái ước mong ở thủa còn trong quân ngũ nó cứ nhấm nhẳng dâng lên trong tâm tưởng, chẳng kịp nghĩ, ông Đào mang đàn ra một số cửa hàng nhạc cụ giới thiệu. Tiếc thay, những cây đàn ông làm ra thời điểm khi ấy nó lạ hoắc, chẳng ai biết đến nó nên thẳng thừng bị từ chối.

Giữa lúc đang chán nản, bế tắc nhất, như có mối duyên kỳ ngộ đến khó tin, chiếc đàn Tính do ông Đào làm lại đến được tay một người hiếm hoi còn quan tâm, nghiên cứu đàn Tính là Nghệ sỹ ưu tú Quỳnh Nha. Chung tình yêu với cây đàn Tính, điệu hát then, người nghệ sỹ ấy đã tìm gặp chủ nhân cây đàn để “đặt vấn đề” phát triển cây đàn Tính.

Cứ như thế, từ cơ duyên ấy xưởng đàn bé nhỏ của ông Đàm Văn Đào mỗi tháng cho ra hàng chục cây đàn Tính đủ mọi kích cỡ to nhỏ. Với “vốn” làn điệu hát then phong phú cùng những cây đàn đủ âm, chuẩn sắc, xưởng đàn của ông Đào luôn là địa chỉ đặt hàng tin cậy với những nghệ sỹ, những con người mê loại nhạc cụ dân tộc này.

Khi biết lầm tưởng của tôi rằng đàn ông làm ra chỉ có thể được chất ở… xó nhà, người nghệ nhân già cười một tràng sảng khoái và khẳng định: “Đàn làm chẳng kịp bán làm sao lại để trong kho được, đàn có chất một đống nhưng là phơi để chỉnh dây, chỉnh âm lần cuối trước khi người ta đến lấy. Những đơn đặt hàng từ Hà Nội, Lạng Sơn thậm chí ở Bình Phước, Tp. Hồ Chí Minh gọi ra lấy mỗi lần dăm ba chục chiếc tôi nào có dám nhận bởi chẳng đủ sức và thời gian làm. Mỗi cây đàn làm ra phải chuẩn tiếng và làm hoàn toàn thủ công, có thế mới tốt được”. Chẳng kịp giải thích nhiều, ông Đào luôn tay xoa xoa một thứ chất keo nhờn nhợt lên những vỏ bầu thành phẩm miệng bắt đầu hướng dẫn tôi cách làm đàn Tính cặn kẽ, chẳng chút giấu giếm.

Công phu một thứ nghề

Làm đàn Tính công phu và rất “kén” người, ông Đào khẳng định chắc nịch với tôi như vậy. Điều đó không hẳn thiếu căn cứ, bởi để cho ra một cây đàn Tính gọi là “chuẩn” nó phải trải qua hàng chục khâu đoạn nếu không ghi lại chắc chẳng mấy ai nhớ hết cặn kẽ. Chẳng hạn, chỉ riêng việc chọn bầu và sơ chế cũng “ngốn” không dưới khoảng thời gian 20 ngày.

Bầu khi còn trên giàn phải lựa kỹ những quả tròn đều, không bị ong châm, kiến chích. Bầu để già cho đến khi gõ vào nghe được những tiếng kêu đanh thì cắt, mang về ngâm nước cho phần ruột chín nhừ. Trong lúc ngâm nước chờ cho ruột bầu “chín” phải thải loại những quả bầu có vỏ quá mỏng. Sau nhiều ngày ngâm nước, bầu được đem phơi trong bóng râm, và nhất thiết không được le lói chút ánh nắng nào. Lý giải điều này, ông Đào cho hay: “Không được phơi nắng, phơi nắng khiến vỏ bầu nó sẽ co hết. Bầu phơi khoảng hơn 2 chục ngày rồi lại ngâm nước vôi tiếp để vỏ bầu săn lại, để cái âm nó phát ra chuẩn đanh chứ không ngâm ngẩm như một người bị chẹn cổ, chẳng phát ra được”. Trước ánh mắt đầy hoài nghi của tôi về phương pháp chọn và ngâm bầu, lão nghệ nhân già cười khà khà rồi giảng giải: “ngày trước người già bảo tao đấy chứ”.
Ông Đào với tay đưa cho tôi một nửa quả bầu rồi bật mí: “Nếu muốn bán đàn cho người ta thì hôm nay mình lồng dây rồi để dây nó căng ra. Thế nhé, cậu cứ để đấy rồi 24 giờ sau mình điều chỉnh lại để lấy cái âm chuẩn”. Lấy như thế nào để được âm chuẩn? – tôi bất ngờ đặt câu hỏi. Thì ra, ” âm chuẩn” theo cách ví dụ của người thợ đàn này cũng khá đặc biệt. Khi muốn lấy âm chuẩn của đàn ghi ta thì người ta phải so dây với đàn organ. Riêng đối với đàn Tính âm chuẩn hay không phải dựa trên kinh nghiệm và cái tai biết thẩm thấu của người thợ đàn.

Theo cách nói như vậy, hẳn nhiên muốn có được cây đàn tốt, thanh âm chuẩn thì người thợ còn phải là người biết hát các điệu then, những quãng âm, nhạc lý cơ bản. Điều này có phần nào khác so với những nghệ nhân chế tạo nhạc cụ mà tôi từng may mắn gặp qua như cụ Đào Soạn ở làng đàn Đông Lỗ (Ứng Hòa, Hà Nội), những người thợ tài hoa ấy phần lớn giỏi chế tạo đàn chứ các giai điệu và cách chơi chưa hẳn đã tinh thông. “Hôm nay mà lên dây rồi thì ngày mai mình phải kiểm tra lại dây, mình so lại nếu quãng nào nó không chuẩn thì lại phải đục lỗ lại, so dây lại. Lần thứ hai so dây là để chỉnh lỗ, một cây đàn chỉ được gọi là hoàn thành khi những khâu cuối cùng là chỉnh âm 2, 3 ngày. Cậu nhớ nhé, những cái lỗ đó tự mình đục thôi, đục bằng tay” – ông Đàm Văn Đào nhấn mạnh.

Chút tài lưu lại cho đời

Tiếng lành về người thợ làm đàn Tính còn sót lại ngay trong lòng thành phố Cao Bằng vang xa. Từ cái duyên hội ngộ với nghệ sỹ Quỳnh Nha, ông Đàm Văn Đào được nhiều người biết, tìm đến học và mua đàn cũng nhiều hơn.

Quơ tay với lấy cây đàn Tính treo gọn nơi góc nhà, ông Đào bỗng lặng thinh, chẳng nói thêm lời nào nữa. Thế rồi, lần lượt các giai điệu từ “ính lả ơi” của miền Tây Bắc, “lưu thủy”, thậm chí một vài bài nhạc đỏ được ông Đào gẩy lên, điệu đàn cứ hun hút như mê hoặc lòng người, nghe qua một lần lại muốn tiếp tục nghe mãi. Tay ngưng tiếng đàn, ông bộc bạch: “Cách đây ít ngày, có hai cô giáo rủ nhau đến tôi xin học gẩy đàn Tính, thế nhưng, mình vừa nhìn là biết nó không lấy được cái điệu đàn của mình, cái tay nó không bấm được”.

Phải chăng học cách chơi đàn Tính và làm đàn đều “kén” người? Không rõ có thực như vậy không nhưng có một điều ông Đào liên tục nhắc lại với tôi rằng: “Người nóng tính sẽ chẳng bao giờ làm được đàn Tính”. Cũng có thể điều ông Đào nói là đúng bởi ngay cả con ông, cháu ông chẳng mấy ai ưa thích cái thú làm đàn cổ của ông.

Khi tôi hỏi người thợ đàn già rằng liệu mai này ông không còn, thì những kinh nghiệm của ông, những tinh hoa kỹ thuật trong chế tạo đàn Tính sẽ như thế nào? Ông Đào chẳng đáp, ngồi lặng thinh ôm cây đàn suy tưởng. Thế rồi, ông lảng sang chuyện bảo tồn.

Chẳng là, ông Đào cũng là một trong số những thành viên tích cực của Hội Bảo tồn Văn hóa Dân tộc Cao Bằng. Cái chuyện bảo tồn và phổ biến các “vỉa trầm tích” văn hóa như cây đàn Tính hẳn nhiên ông vui mừng và mong đợi lắm. Thế nhưng cũng đôi lúc, trong tâm tưởng của người thợ đàn này chất chứa suy tưởng mà chẳng thể giãi bày cùng ai. Mãi đến khi thân thiết, khề khà bên chén rượu, ông mới ít nhiều trải lòng: “Nói thật với cậu nhé, như mấy cái ông hay gọi đàn Tính là “Tính tẩu” theo tôi là không phải. Vì sao ư? vì “Tính tẩu” nếu dịch ra tiếng người Tày như thế là rốn, là núm của quả bầu thôi. Theo tôi thì chỉ nên gọi nó là cây đàn Tính. Mà thật lòng, khi cái từ bảo tồn nó đã không đúng rồi thì dĩ nhiên các giai điệu của nó cũng không đúng. Tôi thấy, các điệu hát then giờ bị pha trộn nhạc đỏ vào nên ít nhiều cũng không còn thấy bóng hình điệu then cổ nữa”.

Nhìn vào đôi mắt trĩu nặng suy tư của ông Đào, bất giác khiến người đối diện giật mình. Ông nói rằng khi tay chạm vào dây đàn Tính ông thấy bản thân mình lạc lõng, bỡ ngỡ như người mới lần đầu biết nghe, biết gẩy điệu then. Chừng ấy năm càng gẩy, càng nghe và mân mê với những thớ gỗ, cung nhạc các ngón đàn cũ càng ngấm, càng hiện ra, từng chút một thanh âm nắn nót như xưa

Nguồn tin: cand.com.vn

Điệu then vang giữa Sài Gòn

Hát then, làn điệu đặc trưng của dân tộc Tày – Nùng tưởng chỉ có thể sinh sôi nảy nở tại các tỉnh miền núi phía Bắc, nhưng hiện làn điệu này lại có sức sống mới giữa chốn phồn hoa đô hội của Sài thành.

LB Đàn tính – Hát then trong một buổi biểu diễn văn nghệ giao lưu Hội đồng hương Cao Bằng tại TP.HCM.

Tự hào hát điệu tình quê

Được thành lập từ đầu năm 2013, CLB Hát then – Đàn tính sinh viên (thuộc Nhà văn hóa Sinh viên TP.HCM) đã trở thành một nơi sinh hoạt bổ ích của các sinh viên người dân tộc Tày – Nùng đang học tập tại thành phố. Hàng tuần tại đây, các em sinh viên dân tộc Tày – Nùng đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn thành phố vẫn miệt mài tập, hát những bài hát then của dân tộc để gửi những tình cảm tha thiết về quê hương xứ sở.

Gặp các thành viên trong CLB trong một buổi sinh hoạt, chúng tôi mới cảm nhận hết được niềm đam mê ca hát cũng như tình cảm mà các bạn gửi gắm về quê hương qua làn điệu đặc trưng của dân tộc. Dù bận học hành, cũng như làm thêm nhưng các buổi sinh hoạt CLB, thành viên đều có mặt đầy đủ.

Đến nay, với gần 20 thành viên trong CLB, ai cũng có thể tự chơi đàn tính (nhạc cụ không thể thiếu khi hát then) và hát then. Các bài hát với nội dung ca ngợi về cảnh đẹp, tình yêu quê hương đất nước, các nét văn hóa của các dân tộc Tày – Nùng… luôn được các bạn thể hiện nhiệt tình, say mê. Điều đáng ghi nhận nhất tại CLB này là sự nỗ lực gìn giữ, phát triển làn điệu âm nhạc dân tộc của các thành viên. Để có thể hát then – đàn tính được thuần thục như ngày hôm nay ít ai biết rằng những “nghệ sĩ” ấy lại khởi đầu bằng con số không. Hầu hết các thành viên không ai biết hát then – đàn tính, nhưng vì đam mê các bạn không quản ngại tìm thầy chỉ dẫn rồi tìm tòi học tập trên mạng trong một thời gian dài.

Lúc ở nhà em không quan tâm đến hát then và cũng hay nhút nhát nhưng khi sinh sống tại thành phố và tham gia CLB em mới thấy bị cuốn hút bởi hát then, đàn tính. Phải mất 3 tháng em mới chơi được đàn và hát được. Được đứng biểu diễn hát những bài hát về quê hương bằng làn điệu của dân tộc mình là điều rất tự hào” – Nông Hồng Chinh (dân tộc Tày)- sinh viên Đại học Kinh tế TP.HCM nói. Tương tự, Mai Hương (dân tộc Nùng)- sinh viên Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn cho biết: “Ở nhà, ba mẹ và bà ngoại rất thích nghe hát then, đàn tính nên em tự học đàn, hát được một thời gian khá lâu. Khi biết có một sân chơi chung cho các sinh viên dân tộc Tày – Nùng, em tham gia ngay. Em nghĩ CLB không chỉ là nơi giao lưu, gặp gỡ giữa các bạn mà còn là nơi góp phần gìn giữ làn điệu của dân tộc mình”.

Nhân rộng tình yêu

“Đối với những người con xa, khi cất lên làn điệu của dân tộc mình cũng là cách để gợi nhớ và thêm yêu quê mình hơn. Chúng em đều là những người trẻ và đều có mong muốn làm sao để điệu hát then mãi được lưu giữ, phát triển dù ở bất cứ nơi nào”.
Nông Tuyết Nhung – thành viên CLB

Lương Văn Danh (dân tộc Tày, sinh viên Đại học Sư phạm TP.HCM)- Chủ nhiệm CLB Hát then – Đàn tính sinh viên cho biết, CLB được thành lập với thành phần là sinh viên dân tộc Tày – Nùng quê quán ở Cao Bằng, Lạng Sơn. Các thành viên tại đây có đặc điểm chung là đều đam mê ca hát, yêu làn điệu dân tộc mình và mong muốn được giới thiệu, quảng bá văn hóa dân tộc Tày – Nùng đến với các bạn sinh viên. Chính vì vậy các bạn phải tiết kiệm tiền, làm thêm để mua đạo cụ, trang phục biểu diễn, thậm chí thời gian đầu CLB còn phải sinh hoạt ở ngoài công viên.

CLB Hát then – Đàn tính sinh viên đã đi biểu diễn giao lưu văn nghệ tại các trường đại học trên địa bàn TP.HCM cùng một số chương trình do Thành đoàn tổ chức và nhận được nhiều sự ủng hộ. “Mong ước của chúng em là năm nay CLB có thêm nhiều cơ hội giao lưu với sinh viên các trường đại học, cao đẳng tại thành phố. Đây không chỉ là hoạt động văn nghệ đơn thuần mà vấn đề chính là chúng em muốn mọi người biết đến những nét văn hóa độc đáo của dân tộc và cảnh đẹp của quê hương Cao Bằng, Lạng Sơn” – Lương Văn Danh nói
.

Hát văn, hầu đồng không phải là mê tín dị đoan

“Không phải cứ cái gì không biết, không giải thích được thì cho là mê tín dị đoan”, là chuyên gia hàng đầu trong việc nghiên cứu đạo mẫu và nghi lễ chầu văn (hầu đồng) – một di sản văn hóa thuần Việt đang đưọc chính phủ xem xét đề trình UNESSCO đề cử là di sản văn hóa phi vật thể thế giới – GS-TS Ngô Đức Thịnh đã nói như thế về những hoài nghi của không ít người về những giá trị đích thực của loại hình văn hóa này, cho dù nghi lễ chầu văn đã được công nhận là di sản văn hóa quốc gia.

GS-TS Ngô Đức Thịnh

GS-TS Ngô Đức Thịnh nguyên là Viện trưởng Viện nghiên cứu Văn hóa Việt Nam (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam), hiện ông là Ủy viên Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia Việt Nam, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn Văn hóa Tín ngưỡng Dân gian, Phó chủ tịch Hội đồng Folklore châu Á.

Là người nhẹ nhàng, cởi mở, do vậy, “cánh” báo chí được nhờ ông rất nhiều bởi ông không bao giờ từ chối chia sẻ những kiến thức của mình về văn hóa, đặc biệt là văn hóa tín ngưỡng – lĩnh vực mà nhiều người còn e dè. Ông cho biết:

Lâu nay người ta cứ đồn thổi hầu đồng, cho rằng nó ghê gớm lắm và che phủ nó bởi một bức màn huyền bí và đầy nghi hoặc. Song nhiều cuộc hội thảo khoa học đã khẳng định đây là một hoạt động văn hóa, tín ngưỡng thuần Việt, xuất phát từ tín ngưỡng thờ mẹ. Vấn đề là phải dần vén màn bí ẩn của hát văn – hầu đồng, xóa bỏ những nghi ngờ, gán ghép với mê tín dị đoan.

* Và đó là lý do ông chọn hầu đồng để nghiên cứu?

– Ngày xưa tôi không nghiên cứu về tín ngưỡng. Đến năm 1980-1981, tôi ở Viện nghiên cứu Dân tộc học chuyển về Viện nghiên cứu Văn hóa dân gian (sau này đổi là Viện Nghiên cứu Văn hóa – PV).

Tôi nghĩ rằng nếu nghiên cứu văn hóa dân gian mà không tiếp cận từ góc độ tâm linh thì không hiểu được văn hóa dân gian. Khi chuyển hướng nghiên cứu, tôi chọn hầu đồng vì mấy lý do: Lúc đó Nhà nước cấm lên đồng mà không thể cấm được. Quê tôi ở Nam Định nên từ bé đã được nghe chầu văn.

Khi nghiên cứu, tôi chỉ muốn trả lời câu hỏi, tại sao lại cấm lên đồng và tại sao cấm không được? Bản chất của hầu đồng là như thế nào? Tôi nghiên cứu được một năm thì thấy rằng lên đồng không phải là một tín ngưỡng riêng biệt mà nó liên quan đến đạo Mẫu. Nó là nghi lễ của đạo Mẫu. Từ đó tôi lại nghiên cứu về đạo Mẫu.

* Vậy đến giờ, những câu hỏi ấy đã có câu trả lời chưa, thưa ông?

Hệ thống thờ đức thánh Trần với bà Liễu Hạnh là sự phát triển hệ thống thờ Lạc Long Quân và Âu Cơ – hai
dòng âm dương. Tục thờ đạo Mẫu
chính là nét văn hóa thuần Việt.

– Nó là thế này, tất cả những người đi trình đồng đều là người không bình thường về mặt tâm lý. Cho nên tôi viết cuốn sách Lên đồng, hành trình của thần linh và thân phận – đó chính là vấn đề đi tìm thân phận. Nếu họ có căn số hoặc trong “nghề” gọi là bị cơ đày thì người ta ra trình đồng sẽ giải tỏa được.

Tôi có thể chứng minh điều này là có cơ sở. Căn số là gì, đó là sự kết hợp giữa gien di truyền và bối cảnh xã hội, gây cho người ta những ẩn ức, chìm vào trong thân xác một cách vô thức, tạo nên một sự rối loạn. Thế thì chính nghi lễ hầu đồng là môi trường để khai mở những vô thức ấy.

Điều này đã được bác sĩ Sigmund Freud nói rồi. Khi được giải thoát những ẩn ức, họ trở lại trạng thái cân bằng và trở thành người bình thường. Nếu tôi là đệ tử ở chùa hay con chiên của Chúa thì có nghĩa là tôi tự nguyện, còn những người ra hầu đồng là do hoàn cảnh “đẩy” người ta vào.

Tuy nhiên, hiện nay có một loại đồng bóng không phải do căn số và phát triển khá đông được gọi là “đồng đua, đồng đú” do nhiều tiền lắm của đua đòi. Nhưng nếu giải thích một cách khoa học thì cũng là một hình thức giải tỏa những dồn nén tâm lý trong một xã hội nhiều căng thẳng và bon chen như hiện nay.

* Ông có thể cho bạn đọc hình dung cụ thể hơn về đạo Mẫu và nghi lễ hầu đồng?

– Đạo Mẫu là một nét văn hóa rất hay, rất gắn bó với cộng đồng, coi tự nhiên là một người mẹ và tôn thờ. Đạo Mẫu thờ Thánh mẫu và các vị thần. Trong số khoảng 50 vị thần mà đạo Mẫu tôn thờ thì hầu hết là những nhân vật lịch sử, có công với dân tộc.

Mọi người đi theo đạo Mẫu vì ba lẽ: Vì sức khỏe, tiền tài và quan lộc. Phải nói rằng đến giờ tôi chưa thấy có một tôn giáo nào không quan tâm đến cái chết như đạo Mẫu. Theo đạo Phật hay Kito giáo thì đều dạy rằng sống như thế nào để chết tránh được kiếp luân hồi và để lại cái phúc.

Riêng đạo Mẫu là để cho cuộc sống hiện tại vì ba lý do trên, Mẫu cho “anh” những thứ rất thực tế, trần gian. Do vậy, xã hội càng hiện đại bao nhiêu thì đạo Mẫu lại càng phát triển bấy nhiêu.

Tôi cũng không nói đây là tôn giáo tín ngưỡng tiến bộ, nhưng tôi gọi đó là tôn giáo hiện sinh. Ngày xưa thờ Mẫu chủ yếu là thờ năng lực sinh sôi nảy nở, giai đoạn đầu thờ nữ thần là như thế. Sau này vào thế kỷ XVI, XVII khi thương nghiệp phát triển thì đạo Mẫu bắt đầu mang tính chất thương nghiệp.

Do vậy, hiện nay các thanh đồng và bản hội hành hương sau tết toàn đi trên những con đường giao thương: Hà Nội – Lạng Sơn, Hà Nội – Yên Bái, Lào Cai, Hà Nội – Hải Phòng, Quảng Ninh; rồi dọc đường thiên lý phía Nam. Cho nên đạo Mẫu từ một tín ngưỡng của người làm nông nghiệp cầu sự sinh sôi nảy nở chuyển sang thương mại và cầu mong cái tài, cái lộc.

Điều này cũng giải thích tại sao hầu đồng cũng phát triển một cách mạnh mẽ tại Hàn Quốc và Nhật Bản. Hàn Quốc còn có hẳn một sắc lệnh bảo vệ các ông đồng, bà đồng như một báu vật sống.

Hầu đồng là một nghi lễ rất điển hình của đạo Mẫu. Nói một cách đơn giản đó là một hình thức diễn xướng dựa trên cách sử dụng âm nhạc mang tính tâm linh với những lời ca, điệu múa uyển chuyển, trau chuốt cùng các nghi lễ nghiêm trang, đưa con người vào trạng thái ngây ngất và tạo ra ảo giác là sự nhập của thần linh.

Chính môi trường đó giúp họ cởi bỏ được sự dồn nén, cân bằng và bình tâm hơn trong việc làm ăn. Tuy nhiên, trong tín ngưỡng thì người ta tin rằng nghi thức lên đồng có thể giúp con người giao tiếp được với các đấng thần linh thông qua các ông đồng hay bà đồng (thanh đồng).

* Nếu đạo Mẫu có những nét đẹp và “hiện sinh” như thế thì tại sao trước đây người ta lại cấm vì cho rằng như thế là mê tín dị đoan thưa ông?

– Khi làm Pháp lệnh về tôn giáo, tín ngưỡng thì chúng tôi có đề nghị không dùng khái niệm mê tín vì rất mơ hồ và không có ranh giới. Mà nên sử dụng khái niệm lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để xâm phạm đến danh dự, tính mạng và tài sản của công dân. Không “mê” một chút thì làm sao có “tín”?

Có rất nhiều hiện tượng bây giờ người ta vẫn chưa giải thích được. Trên thế giới, không có một cơ sở khoa học nào chứng minh được rằng có linh hồn và cũng không có cơ sở nào bác lại điều đó. Điều chúng ta chưa biết còn nhiều lắm, không phải chỉ những điều chúng ta biết mới tồn tại đâu.

Tôi đọc lại học thuyết Mark – Ăng-ghen, họ khẳng định những điều mà con người biết chỉ là một phần rất nhỏ của những điều con người chưa biết. Dần dần người ta sẽ tiến tới sự nhận thức rộng hơn nhưng không bao giờ tiến được đến sự nhận thức cuối cùng.

Do vậy phải coi đó là phương pháp luận trong việc đánh giá sự việc chứ không thể cứ cái gì không biết, không giải thích được lại cho là mê tín dị đoan.

* Tôi băn khoăn rằng trên thực tế hiện nay rất nhiều nơi lợi dụng tôn giáo tín ngưỡng để trục lợi. Nghe nói có giá hầu đồng lên tới vài trăm triệu đồng, người có tâm bệnh mà nghèo thì lấy đâu ra hy vọng giải tỏa được ẩn ức. Hơn nữa, tới đây, với việc được vinh danh là di sản thế giới, hầu đồng được nhiều người quan tâm hơn, liệu nó có bị biến thành một phương tiện làm ăn tốt cho các ông đồng, bà cốt, thưa ông?

– Đúng là nghi lễ hầu đồng cũng có nơi bị lợi dụng, làm cho méo mó, sai lệch đi để trục lợi. Đó là do người dân và ngay cả nhiều thanh đồng cũng không hiểu hết ý nghĩa sâu xa của đạo Mẫu; rồi tín ngưỡng cũng bị thả nổi.

Chính vì thế, Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa, tín ngưỡng ra đời, trở thành một trong những tổ chức giúp cho Ban Tôn giáo Chính phủ và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về mảng tín ngưỡng.

Theo tôi, cấm không được (và cũng không nên cấm) thì tốt nhất là tổ chức lại, định hướng lại, khắc phục các vấn đề đó. Tôi không có đặc quyền để đánh giá giá trị của đạo Mẫu cũng như nghi lễ hầu đồng, do vậy tôi muốn công khai nó để mọi người tự đánh giá. Hơn nữa, để cho các thanh đồng được gặp gỡ nhau, có ý thức hơn.

Thanh đồng mới là người quyết định quy mô của giá hầu đồng, nếu người ta không có ý lợi dụng thì việc ra trình đồng của những người có căn số hay bị cơ đày được tổ chức không tốn kém gì nhiều.

Bệnh chơi trội là bệnh của đồng bóng. Chúng tôi đã làm được việc là vận động các chủ đền, phủ để họ có ý thức trong việc hành lễ. Khi họ ý thức được thì sẽ hạn chế được những việc lợi dụng bởi người ta được làm chủ, được tin cậy thì người ta cũng sẽ có ý thức và ứng xử khác.

Mấy năm nay chúng tôi hay tổ chức giới thiệu hầu đồng ở chỗ này chỗ kia (Hà Nội, Nam Định, Thái Bình, Phú Quốc, Côn Đảo…) cũng là để người dân tiếp xúc với hiện tượng tín ngưỡng ấy một cách tự nhiên, không phải là điều gì đó bí ẩn. Qua đó, chúng tôi cũng muốn chuẩn hóa lại nghi thức hầu đồng.

* Ngoài việc đó ra, trung tâm còn có hoạt động gì nữa, thưa ông?

Trung tâm là những người hoàn toàn tự nguyện, mang tri thức đến cho cộng đồng. Đến 80% thanh đồng không hiểu gì về đạo Mẫu. Họ là người thực hành nghi lễ mà không hiểu gì về nguồn gốc của nó thì rất dễ làm lệch lạc, méo mó nó đi. Bởi vậy, trung tâm có ba thành phần: Các nhà khoa học, các thanh đồng, các nhà quản lý.

Có một câu lạc bộ bảo tồn văn hóa đạo mẫu, phó chủ nhiệm là một Vụ trưởng ở Ban Tôn giáo Chính phủ vì là người quản lý ông ấy phải hiểu nó như thế nào thì mới quản lý và đưa ra những chính sách phù hợp.

Rất nhiều nhà khoa học trong nước và nước ngoài làm đề tài nghiên cứu về đạo Mẫu đã được chúng tôi gửi đến các cơ sở thờ tự để tìm hiểu và đã được giúp đỡ tận tình. Các thanh đồng cũng cùng chúng tôi tham dự hội thảo khoa học.

Khi con người được đặt vào một vị trí và môi trường lành mạnh thì sẽ có những ứng xử chuẩn. Tôi luôn tin như vậy. Chúng tôi chỉ dám nói là những hoạt động ấy sẽ giúp hạn chế tiêu cực trong nghi lễ hầu đồng, làm chuẩn hóa lại tục thờ đạo Mẫu.

Trước đây, chúng tôi cùng các địa phương nghiên cứu, đóng góp làm hồ sơ đền Hùng, thực hành chuyện nghi lễ bởi nó liên quan đến việc khởi nguồn tục thờ mẫu, mẹ Âu Cơ.

Hiện nay chúng tôi bắt tay vào việc nghiên cứu về đền Trần. Trong lịch sử có sự hội nhập giữa đức thánh Trần và thánh Mẫu tạo nên một quan niệm của dân gian “Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”. Chỗ nào có đức thánh Trần thì chỗ đó có Mẫu và ngược lại.

Trong nghi lễ, chúng đan kết và thâm nhập vào nhau. Làm rõ cái đó về mặt nhận thức cho dân và đặc biệt là các thanh đồng để họ hiểu và hành lễ theo truyền thống.

Thực ra hệ thống thờ đức thánh Trần với bà Liễu Hạnh là sự phát triển hệ thống thờ Lạc Long Quân và Âu Cơ – hai dòng âm dương vậy thôi. Chính bởi thế nên tôi cho rằng, tục thờ đạo Mẫu chính là nét văn hóa thuần Việt.

*Thời gian gần đây, nhiều người băn khoăn, lo lắng về tình trạng nhiều di sản của Việt Nam đã được UNESCO vinh danh, nhưng vinh danh xong rồi thì bỏ mặc hoặc bị lạm dụng để phục vụ mục tiêu kinh tế một cách quá đà. Là nhà nghiên cứu văn hóa, tham gia vào việc làm hồ sơ cho không ít di sản, ông có chung suy nghĩ đó không, thưa ông?

Ai chẳng thích được vinh danh. Nhưng ở Việt Nam chủ nghĩa thành tích đã chi phối cách ứng xử của chúng ta đối với văn hóa một cách vô lối. Một trong những điều đang phá hoại giáo dục cũng là chủ nghĩa thành tích, đó là căn bệnh hiện nay. Đã có những người đưa ý kiến, nếu cơ quan thống kê đưa ra những con số không đúng sự thật thì phải bị truy tố.

Môi trường lễ hội đã giúp cho người dân học chủ nghĩa yêu nước, hiểu lịch sử đất nước của mình một cách
sinh động nhất.

Chúng ta đã biết cách nói về giá trị di sản của mình, nhưng vẫn yếu về chương trình hành động. Đó là do chúng ta không coi trọng, trong khi quốc tế rất coi trọng điều đó, bởi đó là danh dự khi thực hiện cam kết bảo tồn, phát huy, giữ gìn hình ảnh di sản. Hiện nay khá nhiều loại hình di sản ở Việt Nam sau khi được tôn vinh bị làm méo mó đi.

Kỷ lục hát quan họ cho thấy những người quan họ tự hào và yêu quan họ như thế nào, nhưng thiếu sự hiểu biết, thiếu sự hướng dẫn nên giống như một sự phá hoại. Bảo vệ di sản không chỉ cần có ý thức mà phải có cả tri thức.

Cùng trong một tuần tôi nhận được hai giấy mời của Tây Nguyên vào bàn về vấn đề bảo vệ di sản cồng chiêng. Tôi hỏi tại sao lại có những hai hội nghị trên cùng địa bàn, một tỉnh.

Thì ra, một hội thảo của Viện Văn hóa Nghệ thuật (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tổ chức bằng tiền ngân sách, còn một nhóm kia là có tiền tài trợ nước ngoài. Mạnh ai người ấy làm, vừa tốn kém, vừa không hiệu quả.

Và quan trọng hơn, chủ thể của các di sản hầu như không có tiếng nói trong các hội thảo như vậy. Di sản là của nhân dân, do dân thực hành chứ có phải là của các nhà khoa học hay các nhà quản lý đâu?

* Nhân nói về Tây Nguyên, dự án “Sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên” của Viện Nghiên cứu Văn hóa, được Nhà nước đầu tư tới hàng triệu USD cách đây hàng chục năm, đã “đi” đến đâu rồi, thưa ông?

– Việc làm dự án ở Việt Nam rất truân chuyên và đầy may rủi, nhưng đây là câu chuyện khác, tôi sẽ nói ở chỗ khác. Tôi chỉ có thể nói là rất may mắn chúng tôi đã được thực hiện dự án ấy bởi không làm lúc đó thì không biết bây giờ còn làm được không.

Các điều kiện kinh tế, xã hội ở Tây Nguyên bây giờ cũng khác, các nghệ nhân dần mất đi, trong đó đặc biệt là nghệ nhân Điểu Kâu – có thể nói, không có ông chúng tôi khó có thể dịch được hàng trăm tác phẩm sử thi đồ sộ như thế.

Với số tiền hơn 22 tỉ (khoảng 1,5 triệu USD khi ấy), đây được coi là một dự án khoa học xã hội được đầu tư lớn nhất, trở thành một hiện tượng văn hóa của Việt Nam giai đoạn 2001-2007.

Trong bảy năm, chúng tôi đã sưu tầm được hơn 9.000 băng hình, băng tiếng của hơn 800 tác phẩm sử thi, rồi chọn ra hơn 100 tác phẩm để xuất bản 100 tập. Đây là bộ sách được Trung tâm kỷ lục sách Việt Nam công nhận là lớn nhất và đẹp nhất của Việt Nam (tập dày nhất là 1.000 trang, mỏng nhất là hơn 700 trang).

Khi làm cuốn sách, tôi muốn là người dân tộc thiểu số không phải ai cũng đọc được, nhưng khi cầm cuốn sách trên tay họ cảm nhận được di sản văn hóa của họ đẹp đến thế, được Nhà nước trân trọng đến thế.

Sắp tới chúng tôi phải làm một việc nữa là bảo quản hơn 9.000 băng hình, băng tiếng sưu tầm được. Điều kiện bảo quản rất tồi tệ, tôi chỉ mong trước tiên hãy “số hóa” hết số tài sản ấy. Mình đã cứu được rồi, mang về rồi mà lại để chúng “chết” trong kho ở giữa thủ đô thì đúng là mang tội.

Bây giờ mới gỡ băng và in được 100 tác phẩm, một con số quá nhỏ so với kho tàng sử thi. Nếu số hóa được thì không những giữ được kho tàng ấy mà còn lưu giữ được tiếng nói, hình ảnh, cách thức trình diễn của nghệ nhân.

*Quả thật, ở thời điểm hiện nay, con số 22 tỉ đồng ấy chưa bằng số tiền để tổ chức một lễ hội cấp quốc gia, nhưng đã giúp các ông làm được một việc vô cùng lớn lúc ấy. Theo ông, làm thế nào để lôi kéo các doanh nghiệp vào việc bảo tồn di sản văn hóa, thay vì chỉ quan tâm đến các lễ hội?

– Thực ra, trong thời gian qua họ cũng quan tâm đến. Nhưng cách làm thì chưa ổn. Lễ hội không có tội mà cách làm chúng ta không đúng thôi. Chúng ta coi nhiều thứ văn hóa truyền thống là mê tín dị đoan, là phong kiến nên một thời cấm tổ chức lễ hội, các đình chùa bị phá hoặc bị dùng vào mục đích khác. Do vậy, phục hưng lại văn hóa truyền thống thì trong đó phải có lễ hội.

Thực tế lễ hội rất quan trọng đối với một dân tộc. Tôi cũng không hiểu nếu như không có lễ hội thì văn hóa của chúng ta có còn không và có truyền lại được hay không. Bởi vì lễ hội chính là cái nơi trao truyền văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ kia.

Lễ hội là một môi trường văn hóa rất quan trọng. Thời xưa, có mấy người đọc được chữ nho đâu, nhưng nông dân vẫn hiểu lịch sử và bồi dưỡng được chủ nghĩa yêu nước chính là nhờ lễ hội.

Ví dụ, cả Đồng bằng Bắc bộ có 418 làng thờ Hai Bà Trưng, năm nào cũng thế, cứ đến ngày đến tháng ấy là cả 418 làng đều tái hiện hình ảnh của Hai Bà Trưng bằng những lễ nghi rất sinh động chứ không có chữ nghĩa gì cả.

Còn Trần Hưng Đạo và rất nhiều danh nhân nữa. Môi trường lễ hội đã giúp cho người dân học chủ nghĩa yêu nước, hiểu lịch sử đất nước của mình một cách sinh động nhất.

Theo thống kê, hiện cả nước có hơn 8.000 lễ hội, ai cũng kêu là quá nhiều, không thể tượng tưởng nổi. Nhưng phải nhớ rằng trong số đó có khoảng 7.000 lễ hội ở quy mô làng, xã.

Dù chỉ là quy mô nhỏ thì nó cũng là một hiện tượng văn hóa của một cồng đồng, đáp ứng nhu cầu tâm linh của cộng đồng đó. Không thể lấy hội Gióng hay hội Đền Hùng để thay thế cho tất cả các hội nhỏ ấy bởi vì nó liên quan đến thân phận, số phận, ký ức của những con người bản địa.

Vì vậy, theo tôi, tốt nhất hãy trao quyền tổ chức lễ hội truyền thống cho người dân. Nhà nước và các nhà khoa học chỉ hỗ trợ thôi. Tất nhiên, cấm một thời gian dài và bây giờ cho nó quay trở lại thì sẽ có những cái quá đà, do truyền thống đã bị đứt đoạn. Điều này chúng ta có thể uốn nắn được.

Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!

KIM ANH thực hiện/DNSGCT

Sức ảnh hưởng của dân ca xứ Nghệ tới thi ca và âm nhạc

Ở nước ta, nhiều vùng quê có làn điệu dân ca riêng, nhưng có lẽ Quan họ Bắc Ninh và Dân ca Nghệ Tĩnh được nhiều người yêu thích nhất. Hai làn điệu dân ca này trở thành Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại đã đáp ứng nguyện vọng của số đông thính giả.

Cái mạnh của Quan họ Bắc Ninh là trữ tình, duyên dáng…còn Dân ca Nghệ Tĩnh sâu lắng, đầy lòng thương cảm, nặng tình nặng nghĩa. Khi nói chuyện về Truyện Kiều, tôi thường lưu ý với bạn đọc rằng, một trong những yếu tố tạo nên thiên tài của Nguyễn Du là bản thân ông được giao hòa dòng máu của hai vùng văn hóa chứa hai làn điệu dân ca nổi tiếng của quê bố Nghệ Tĩnh và quê mẹ Bắc Ninh. Nhiều câu thơ viết như rút ruột của tác giả Truyện Kiều rất gần với chất thương cảm trong dân ca Nghệ Tĩnh: “Thiếp từ ngộ biến đến giờ / Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa / Bấy chầy gió táp mưa sa / Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn…” . Hoặc: “Phận bèo bao quản nước sa/ Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh”… “Chất thương cảm” này không chỉ đối với đại thi hào Nguyễn Du, mà còn là thế mạnh của nhiều nhà thơ xứ Nghệ khác. Đấy là vì từ trong dòng máu, từ trong nôi, người dân Nghệ Tĩnh đã tiếp thu đặc trưng của làn điệu dân ca quê mình, phần nhiều thể hiện qua các câu ví, giặm. Về thể loại, các nhà thơ xứ Nghệ ảnh hưởng nhiều ở thể giặm, thơ năm chữ, và với nhiều nhà thơ vùng này, tác phẩm xuất sắc nhất của họ cũng được sáng tác theo thể này, như Thăm lúa của Trần Hữu Thung và Đêm nay Bác không ngủ của Minh Huệ. Mặc dù chưa có số liệu thống kê chính xác, nhưng theo cảm nhận của tôi, bên cạnh thể lục bát, các nhà thơ xứ Nghệ là những người thích sáng tác thể thơ ngũ ngôn hơn các nhà thơ của vùng quê khác. Ngay như khi đã có tuyệt tác Truyện Kiều theo thể lục bát rồi, có người còn viết lại tác phẩm này bằng thơ ngũ ngôn, gọi là “Kiều Giặm”!

Nhân đây tôi muốn trở lại một vấn đề mà nhiều bạn đọc quan tâm là dặm hay giặm, vì trong nhiều văn bản khác nhau, từ này thường được viết khác nhau như thế. Ta biết rằng, dân ca, xuất xứ là thể hát truyền khẩu từ người này qua người khác, khi chưa hề có văn bản. Sau đó người ta mới ghi lại để có văn bản, nghĩa là âm có trước, chữ có sau. Trong tiếng Việt hai phụ âm d và gi chỉ dùng để ghi một âm như nhau, vì vậy dặm hay giặm đều được cả. Tuy nhiên, tôi đồng ý với giáo sư Tô Ngọc Thanh, trong trường hợp này, ta nên chọn giặm, vì từ dặm vốn đã có nghĩa là một đơn vị chiều dài rồi. Và trong hồ sơ tôn vinh của UNESCO, cũng được viết là ví, giặm, chúng ta nên dựa vào. Còn tại sao lại gọi là hát giặm? Trong ngôn ngữ Nghệ Tĩnh, giặm là động từ mang ý nghĩa chèn vào, thêm vào chỗ trống, chỗ thưa. Khi ruộng lúa cấy xong bị cua cắn mất nhiều bụi, người ta phải cấy bổ sung vào, được gọi là “cấy giặm”. Trong hát giặm, lời gồm nhiều khổ thơ ngũ ngôn, mỗi khổ thường năm câu, trong đó câu thứ năm được nhắc lại nguyên xi hoặc thay vài từ của câu thứ tư, coi như câu thứ năm được giặm vào phần cuối của khổ thơ bốn câu. Đó là đặc trưng của hát giặm và trở thành tên gọi của làn điệu này.

Cũng như nhiều người con sinh ra, lớn lên ở xứ Nghệ, bài dân ca đầu tiên tôi được nghe là bài Phụ tử tình thâm. Đây là một bài hát giặm, không ai rõ tác giả và có từ thời nào, nhưng hầu như bà mẹ nào cũng thuộc để ru con, lời ru là lời thủ thỉ tâm sự dạy con luôn phải nghĩ đến công lao, tình cảm bố mẹ để lớn lên tìm cách ăn ở, cư xử cho hợp đạo làm con:

Phụ tử tình thâm
Công thầy nghĩa mẹ
Con đừng tiếng tăm nặng nhẹ
Đừng tiếng tăm nặng lời
Đừng cả tiếng dài hơi
Nói mẹ cha sao nên
Cãi mẹ thầy sao phải…

Bài hát ru này dựa chính vào điệu giặm, nhưng không cứng nhắc thể thơ ngũ ngôn và câu giặm không nhất thiết phải nằm cuối mỗi khổ thơ. Nghĩa là trong dân gian, làm điệu giặm cũng đa dạng, phong phú lắm.

Nhưng dân ca không chỉ đến với trẻ thơ bằng lời ru của mẹ, của bà… nghĩa là có những lời ca không phải sinh ra dưới mái nhà, mà đến từ phía ngoài lũy tre. Làng tôi khá gần sông Lam, ngày còn bé tí, chưa đến tuổi cắp sách đến trường, có những đêm khuya thanh vắng chợt vọng về lời hát, mà sau này tôi mới biết đó là Ví đò đưa:

Đò anh xuôi, em có muốn xuôi không
Qua Đò Rồng anh đợi, tới Vực Cung anh chờ!

Những câu hò khuya khoắt như thế cứ xa dần, xa dần và đưa tôi chìm sâu vào giấc ngủ.

Có người nhận xét rằng, tính cách người Nghệ rất quyết liệt, không thích lưng chừng, đã làm điều gì thì làm đến tận cùng, đã nói thì nói sao cho thật hết ý mình, không giữ gìn, tránh né… Tính quyết liệt đã có sẵn trong dân ca từ ngày xưa, không vùng nào có lời bộc bạch tình yêu quyết liệt như dân ca xứ Nghệ:

Em thương anh cha mẹ nỏ ưng
Chặn em đi cửa trước, em lại vòng cửa sau…
Dù đập em chín chục, một trăm
Đập rồi em đứng dậy vẫn nhất tâm lấy chàng!

Mấy ai trong tình yêu, nhất là trong dân ca, có được những lời gan ruột như thế!

Người Nghệ sống giữa quê hương gần gũi với các làn điệu dân ca như cơm ăn, nước uống và khí trời, quen đến mức có khi dường như quên đi sự tồn tại của nó! Người Nghệ xa quê thì ngược lại, trong nỗi nhớ quê có nỗi nhớ dân ca. Một người Nghệ điển hình, đạt kỷ lục về số năm xa quê là Bác Hồ, những ngày bôn ba tìm đường cứu nước cũng như khi sống ở Thủ đô với cương vị Chủ tịch nước, Bác luôn nhớ quê hương. Những năm ở chiến khu Việt Bắc, nhớ nhà không thể về được, Bác bèn trồng hai cây bông bụt, thứ cây quen thuộc của nhà Bác ở Kim Liên, bên cạnh phòng làm việc, để ngoài giờ làm việc, nhất là những buổi chiều hôm, Bác ngồi một mình nhìn cây cho vơi nỗi nhớ nhà. Còn khi ở Thủ đô, nhiều khi nhớ quay quắt một làn điệu dân ca, Bác cho mời các ca sĩ của xứ Nghệ ra hát ở Phủ Chủ tịch. Nữ nghệ sĩ Song Thao của Đoàn văn công Nghệ An là người được nhiều lần hát phục vụ Bác, chị kể rằng có khi đang hát, nhìn khuôn mặt Bác thấy những giọt lệ tụ đầy khóe mắt, làm cho mắt chị cũng rưng rưng.

Người sáng tác thêm làn điệu dân ca thành công nhất, có lẽ là ông Nguyễn Trung Phong, nguyên trưởng đoàn Văn công Nghệ An. Đó là điệu “Giận mà thương”. Rất tiếc là hơn nửa thế kỷ nay, chúng ta chưa thật công bằng trong việc ghi công ông, khi chỉ giới thiệu Giận mà thương là dân ca Nghệ Tĩnh. Giới thiệu như vậy không sai, nhưng không đủ. Sự thật bất cứ một làn điệu dân ca nào cũng do con người cụ thể sáng tác ra, rồi theo năm tháng được cộng đồng nâng cấp lên. Khi không biết được ai là tác giả thì chúng ta chỉ giới thiệu chung là dân ca. Còn điệu Giận mà thương thì khác. Năm 1958, miền bắc thành lập các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng có nhiều hình thức tuyên truyền cho việc này. Có lẽ sau đấy không lâu, Nguyễn Trung Phong sáng tác vở ca kịch “Khi ban đội vắng nhà”, phần lớn dùng các giai điệu dân ca đã có, nhưng riêng đoạn người vợ khuyên chồng không nên nhân khi ban đội vắng nhà, không ai giám sát, bỏ bê công việc của hợp tác mà lên Đô Lương (ngược lường) để đi buôn (thường là buôn chè) thì ông sáng tác ra một làn điệu hoàn toàn mới, trước đó chưa từng có:

Vì thương anh nên em bàn với mẹ
Phải ngăn anh không đi chuyến ngược Lường
Giận thì giận
Mà thương thì thương…

Vì không biết xuất phát từ nội dung của vở ca kịch, nên có nhiều ca sĩ không hiểu “ngược lường” là gì, nên đã hát thành “ngược đường”. Như vậy, Nguyễn Trung Phong là người sáng tác thêm giai điệu cho dân ca xứ Nghệ thành công nhất. Về sau, nhiều nhạc sĩ phát triển dân ca xứ Nghệ để sáng tác những ca khúc đương đại. Theo nhạc sĩ Huy Thục, nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên sử dụng chất liệu dân ca xứ Nghệ khi sáng tác ca khúc là Nguyễn Tài Tuệ, với bài hát “Xa khơi”. Sau đó nhiều nhạc sĩ khác đã thành công trong công việc này như Trần Hoàn, Thuận Yến, An Thuyên…

Với tôi, một nhà thơ, có sáng tác được một số bài thơ thấm đẫm tình người, được bạn đọc thuộc lòng và tâm đắc, tôi biết rằng những bài thơ đó có nguồn cội sâu xa từ dân ca xứ Nghệ.

Vương Trọng

Bảo tồn điệu hát then cổ của người Tày

Nói đến hát then của người Tày ở tỉnh Tuyên Quang không thể không nhắc đến huyện Chiêm Hóa. Then Chiêm Hóa được chọn tham gia các cuộc liên hoan văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc và nhiều hội thi cấp quốc gia khác. Tỉnh Tuyên Quang được giao làm đầu mối lập hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận hát then là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, đại diện cho đồng bào Tày khu vực Việt Bắc.

Là một trong bảy nghệ nhân của tỉnh Tuyên Quang được Nhà nước phong tặng Nghệ nhân Ưu tú, ông Hà Văn Thuấn (trong ảnh), sinh năm 1942, dân tộc Tày, thôn Tân Hợp, xã Tân An, huyện Chiêm Hóa là người có khả năng khai thác, biểu diễn thuần thục các làn điệu hát then (then cổ, then mới) và chế tác, sử dụng thành thạo đàn tính. Đến nay, ông đã sáng tác hơn 30 bài hát lời mới phổ nhạc theo làn điệu hát then; khai thác hơn 60 bài then cổ truyền dạy lại cho các thế hệ sau.

Từ khi có Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về sự phát triển toàn diện và sáng tạo đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, lúc đầu, ông đứng lên truyền dạy cho con cháu trong gia đình, sau đó nhiều người đã tìm đến nhà ông học. Đến nay, mỗi năm ông đều được Sở Văn hóa – Thể thao và Trung tâm văn hóa tỉnh mời về dạy hát then cho học viên từ nhiều huyện trong và ngoài tỉnh về học, trong đó có cả người dân tộc Kinh và Tày. “Then cổ có cốt truyện, giáo dục con người có tâm, có đức, hướng đến cái thiện, cho nên mỗi khi truyền dạy, tôi đều cố gắng để truyền tải một cách dễ hiểu và nhanh nhất”, Nghệ nhân Ưu tú Hà Văn Thuấn tâm sự.

Toàn huyện Chiêm Hóa hiện có khoảng hơn 1.200 người biết hát Then, hơn 600 người biết chơi đàn tính, hơn 40 câu lạc bộ hát then, đàn tính, dân ca, dân vũ được thành lập ở các xã, thị trấn, trường học và Trung tâm văn hóa huyện. Việc duy trì các câu lạc bộ hát then khiến Chiêm Hóa là một trong những địa phương đi đầu trong toàn tỉnh về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Tày. Thôn An Thịnh, xã Tân An, huyện Chiêm Hóa nơi ông đang sinh sống là một trong những thôn đầu tiên của huyện thành lập được câu lạc bộ hát then, đàn tính.

Ngày chưa thành lập, cả thôn chỉ có một nhóm người biết hát then, chơi đàn tính. Với tâm huyết và mong muốn bảo tồn nét văn hóa truyền thống của dân tộc Tày, họ tập hợp thu hút những người yêu thích hát then ở thôn khác, cùng nhau tập luyện và biểu diễn trong nhóm. Đến nay, riêng câu lạc bộ hát then, đàn tính thôn An Thịnh đã có hơn 20 thành viên. Trong các chương trình biểu diễn văn nghệ do xã tổ chức đều có đóng góp của nhóm hát then, đàn tính thôn An Thịnh.

Dù tuổi đã cao, sức đã yếu, Nghệ nhân Ưu tú Hà Văn Thuấn luôn hết mình với niềm đam mê hát then và nỗ lực truyền dạy cho các thế hệ sau để bảo tồn và phát huy giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc mình. “Bảo tồn, truyền dạy đã khó nhưng làm sao lưu truyền và đừng để bị mai một nét văn hóa dân tộc của cha ông mới là cái khó…”, ông Thuấn tâm sự.

Nghị lực của nữ sinh mồ côi “gặt vàng” với dân ca Ví giặm

GiadinhNet – Từ nhỏ đã thiếu vắng tình thương của cha, mẹ lại sớm qua đời nhưng bằng nghị lực phi thường, Nguyễn Thị Huyền, sinh viên năm thứ 3 ngành Sư phạm mầm non, ĐH Vinh vẫn vượt khó trong học tập và có niềm đam mê đặc biệt với dân ca Ví giặm.

Vượt khó vào giảng đường

Huyền (bìa trái) tại trường ĐH Vinh. Ảnh: Duy Ngợi

Tôi gặp Huyền trong một buổi chiều muộn tại Trường ĐH Vinh. Khuôn mặt dịu hiền, nụ cười tươi nhưng ánh mắt đượm buồn là những ấn tượng đầu tiên khi tôi tiếp xúc với em. Ít ai biết, Huyền từng có tuổi thơ nhiều thiệt thòi, bất hạnh. Huyền sinh năm 1995, ở xã Mỹ Thành (một xã bán sơn địa khó khăn của huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An). Ngày em cất tiếng khóc chào đời, người cha đã bỏ mẹ con em đi biệt tích.

Rồi Huyền nhớ lại, khi đi học, bạn bè ai cũng được bố đưa đón còn em thì không có cha nên rất tủi thân. Dù khó khăn, vất vả nhưng mẹ Huyền vẫn dành tất cả tình thương cho hai chị em. Nhờ đó, chị em Huyền cũng vơi bớt phần nào mặc cảm, thiệt thòi. Nhưng rồi khi Huyền 15 tuổi, mẹ em lại đột ngột qua đời vì sốc thuốc.

Mất đi chỗ dựa lớn nhất của cuộc đời, rồi ông bà ngoại mất sớm, anh em họ hàng cũng khó khăn nên chị gái của Huyền là Nguyễn Thị Oanh (SN 1989) học hết lớp 7 phải nghỉ học để đi làm thuê kiếm tiền nuôi em ăn học. Nói đến đây, Huyền không cầm được nước mắt: “Nhìn bạn bè hạnh phúc bên gia đình, ngẫm lại mình, nhiều lúc em thấy rất tủi thân. Sáu năm rồi, em đã không còn được mẹ chăm lo cho bát cơm, bát cháo khi đau ốm, khi học hành thi cử mệt mỏi”.

Chị gái làm thuê ở Vũng Tàu, vài năm mới về được một lần nên Huyền phải sống một mình giữa căn nhà 2 gian trống vắng. Mỗi khi về thăm nhà hay gọi qua điện thoại, chị gái Huyền không quên nhắc em: “Chị khổ rồi, nên em hãy cố gắng học hành, học thêm cả phần của chị để sau này có cuộc sống tốt hơn”.

Cuộc sống của đứa trẻ mồ côi không cho phép Huyền được vô tư như bạn bè đồng trang lứa. Nhưng không phụ lòng mong mỏi của người chị, Nguyễn Thị Huyền đã cố gắng vượt qua khó khăn, vươn lên trong học tập. Huyền học đều các môn nhưng thiên về các môn xã hội. Đặc biệt, em có sở trường và đam mê đặc biệt với môn Văn. Trong kỳ thi HSG tỉnh môn Văn năm lớp 12, Huyền đã xuất sắc đoạt giải Nhì. Học hết lớp 12, em dự thi vào Trường ĐH Văn hóa Nghệ thuật quân đội nhưng thiếu mất 0,25 điểm. Thi không đỗ, Huyền vào làm thuê tại một nhà hàng cùng chị gái ở Vũng Tàu.

Năm 2014, Huyền lại một lần nữa nuôi ước mơ theo đuổi vào giảng đường. Sau đó, Huyền đậu thủ khoa Khoa Thanh nhạc, Trường CĐ Văn hóa nghệ thuật Nghệ An và đậu ngành Sư phạm Mầm non, ĐH Vinh. Vì hoàn cảnh khó khăn nên Huyền đành phải theo học ngành Sư phạm Mầm non, dở dang ước mơ ca hát của mình. Đó là một trong những điều đáng tiếc nhất trong cuộc đời của cô nữ sinh mồ côi.

Ngày vào giảng đường, Huyền được chị gửi về hơn 2 triệu đồng để nhập học. Học hành, sinh hoạt, chi tiêu… Huyền đều trông cậy vào đồng lương công nhân ba cọc ba đồng của chị gái và khoản trợ cấp xã hội 405.000 đồng/tháng. Ngoài ra, vốn có năng khiếu ca hát nên Huyền thường xuyên được mời biểu diễn trong những sự kiện của trường và bên ngoài. Nhờ đó, em có thêm thu nhập trang trải chi phí ăn ở, học tập.

Cuộc sống khó khăn, không nơi nương tựa, nhiều lần khiến Huyền suy nghĩ tiêu cực, trách móc số phận nghiệt ngã. Nhưng nghị lực phi thường đã giúp Huyền đứng dậy, vượt qua mọi khó khăn. “Em luôn tự nhủ, không ai có thể thay đổi được cuộc sống của mình ngoài chính bản thân mình. Cuộc sống của em vốn chịu nhiều thiệt thòi nhưng không vì thế mà mãi ngồi than thân trách phận được, điều đó không giúp cuộc sống của mình tốt đẹp hơn. Ngược lại, nó làm cho mình bi quan, mãi mãi chìm trong bất hạnh mà thôi”, Huyền chia sẻ.

Nếu được, sẽ gắn bó với sự nghiệp ca hát

Nguyễn Thị Huyền xuất sắc giành HCV Hội thi Tiếng hát sinh viên toàn quốc tháng 5/2016

Huyền được trời phú cho năng khiếu ca hát từ bé. Từ lúc học lớp 2, em đã biết hát dân ca xứ Nghệ. Cô nữ sinh mồ côi có thể hát được nhiều dòng nhạc nhưng lại có niềm đam mê đặc biệt với dân ca xứ Nghệ. Huyền bật mí, mẹ của em ngày trước hát rất hay, là thành viên trong câu lạc bộ dân ca của huyện. Do vậy, mỗi lần mẹ đưa bài hát nào về Huyền đều học thuộc và hát theo. Những lời ru hay mỗi lần mẹ hát ví giặm, Huyền nghe dần thành quen và thấm nhuần dân ca xứ Nghệ lúc nào không hay.

Từ khi đi học, Huyền luôn là cây văn nghệ của trường. Tháng 5/2016, cô nữ sinh mồ côi ngành Sư phạm mầm non vinh dự đại diện cho Trường ĐH Vinh tham gia Hội thi “Tiếng hát sinh viên toàn quốc” tổ chức tại Quy Nhơn (Bình Định). Tại đây, với phần thi hát đơn ca, Huyền thể hiện ca khúc “Nhớ thương Ví giặm” và xuất sắc giành Huy chương Vàng. Đó là phần thưởng cao quý mà Huyền không dám mơ tới và điều đó khiến em hạnh phúc khôn tả. Tuy nhiên, khi đứng trên sân khấu lớn với một giải thưởng cao quý, Huyền không giấu nổi khao khát có gia đình bên cạnh. “Ngay lúc hạnh phúc nhất, em không còn có thể chia sẻ niềm vui ấy với bố mẹ của em. Và người duy nhất em có thể chia sẻ lúc ấy chỉ là chị gái mình”, cô gái xinh xắn với nụ cười tươi không giấu nổi cảm xúc vui mừng khi nhớ lại giây phút đón nhận kết quả.

Khi được hỏi về những dự định trong tương lai, Huyền chia sẻ: “Lúc này, điều em quan tâm nhất là học tập và có một công việc ổn định. Nếu có điều kiện thử sức và gắn bó lâu dài với nghiệp ca hát, em sẽ không bỏ lỡ cơ hội”.

Nguyễn Thị Huyền đã gặt hái được nhiều giải thưởng trong các cuộc thi ca hát: Giải Ba Tiếng hát học sinh huyện Yên Thành năm lớp 4; Giọng hát xuất sắc tiếng hát dân ca trong trường học cấp huyện năm lớp 9; Giải Nhất tiếng hát sinh viên khóa 55 Trường ĐH Vinh. Đặc biệt, tháng 5/2016, Huyền xuất sắc đạt Huy chương vàng cho tiết mục đơn ca xuất sắc nhất Hội thi “Tiếng hát sinh viên toàn quốc” lần thứ XIV năm học 2015-2016.

Thạch Quỳnh

Nhạc sỹ Thao Giang: ‘Ông bầu’ xẩm không lương

TP – Làm “ông bầu” vẫn đang là mốt: hết “bầu” bóng đá, lại “bầu” phim ảnh, ca nhạc… Cha đẻ của “Kể chuyện ngày mùa” cũng nhanh nhạy với thời cuộc. Gần mười năm trước Thao Giang đã lên ngôi “bầu” nhưng lại chọn một lĩnh vực thiên hạ làm ngơ: “Bầu” gánh hát xẩm.

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ – Người khôn người tới chốn lao xao”. Muốn gặp Thao Giang không khó, cứ đến Đình Hào Nam, bởi trụ sở Trung tâm phát triển nghệ thuật Âm nhạc Việt Nam do ông sáng lập đang nằm ở đó.

Gặp nhạc sỹ mới biết tại sao ngày xưa các giảng viên âm nhạc lại chọn ông học đàn nhị (chứ không phải piano hay bất kỳ một nhạc cụ mang hơi tây nào khác).

Khuôn mặt ông rặt nét Á Đông hiền lành với cặp kính to tròn ngồ ngộ như nhân vật Nobita trong truyện tranh Nhật Bản. Chẳng biết “ông bầu” bóng đá khoái chém gió ra sao, còn “ông bầu” gánh hát xẩm Đồng Xuân hình như chẳng biết “chém gió” là gì, vừa kể chuyện ông vừa cười vui vẻ, chẳng cần che đậy sự kém tiền của mình.

Chàng nhà quê thành “phù thủy”

Sẽ may mắn cho những ai được tận thấy Thao Giang trổ tài “phù thủy” trên đàn nhị khiến nó phát ra tiếng người, xem cái cách ông búng đàn, không thể không nể. Nhưng mối duyên với đàn nhị của ông lại do… xô đẩy mà thành.

Năm 1968, ông thi đỗ vào Nhạc viện: “Chắc các thầy thấy tôi quê mùa thì cho học nhạc dân tộc. Thầy xem tay rồi phán, thằng này học nhị được, chứ tôi nào biết nhị là gì, violon là gì đâu?”.

Chẳng bao lâu, ông đã nhận ra thứ nhạc cụ mà ông đang học có phận “chiếu dưới”. Nhưng chàng trai đất Thanh Oai không chịu “bó tay” với sự sắp đặt: “Thấy các bạn chơi nhạc hiện đại lên biểu diễn độc tấu hiên ngang, tôi tự hỏi, sao nhạc cụ dân tộc lại đì đẹt thế này”.

Đem thắc mắc hỏi “lão làng” trong nghề, ông nhận được câu trả lời: “Cái này chơi nhạc khác”. Nhưng càng học ông càng không tin lời “lão làng” và nung nấu quyết tâm “nguyên lí như nhau, ta sẽ chế ra cây đàn nhị mới “đọ” được nhạc cụ tây”.

May mắn ông được gặp nhạc sỹ Lê Yên. Vị nhạc sỹ tài hoa đã củng cố niềm tin cho Thao Giang. Ông bảo: “Đàn nhị có nhiều chức năng khác nhau, có thể đánh trong dàn bát âm, trong tuồng, chèo, cải lương, dân ca… Bây giờ ta phải khai thác được khả năng diễn tấu của nó thì sẽ nâng tầm đàn nhị”.

Tác giả “Bộ đội về làng” đưa ra tấm gương khích lệ tinh thần Thao Giang: “Papagini chỉ chơi với một dây, hai dây, tại sao cậu không nhìn vào đó mà noi theo?”.

Thao Giang bắt tay vào công cuộc cách tân đàn nhị, với việc đầu tiên, học “sáng tác dân tộc” từ nhạc sỹ Lê Yên. Việc học sáng tác càng khiến ông cảm nhận sự thô sơ của nhạc cụ, cần thiết phải đổi mới.

Bài toán đặt ra: Cách tân làm sao để đàn nhị của ta khác đàn nhị Trung Quốc? “Nếu kéo lên âm sắc giống Trung Quốc thì hỏng”.

Vật lộn ngày đêm, ban đầu ông lấy dây violon đưa vào, không thành, lại sang tận Gia Lâm xin dây điện của máy bay, tuốt ra lắp vào làm dây đàn nhị, kéo thử lại thấy cứng.

Sau nhiều thử nghiệm, Thao Giang đã thắng. Dây đàn nhị mới là dây thép, thay cho dây cước, dây tơ trước đây, một cuộc cách mạng mở rộng âm vực cho đàn nhị.

Công trình này đã được Thao Giang mang đi báo cáo, triển lãm từ năm 1979 nhưng chưa bao giờ ông nghĩ tới việc đăng ký bản quyền, dù bây giờ khắp nơi từ Nam chí Bắc đều đang sử dụng công trình của ông.

(Cũng giống như việc phong tặng danh hiệu, ông không tính chuyện làm hồ sơ xin xet tặng danh hiệu NSƯT hay NSND, dù rằng, đủ tiêu chuẩn. Ông nói: “Tôi bận nhiều việc không có thời gian. Mà nếu thấy tôi xứng đáng thì xét tặng, chứ làm hồ sơ thì tôi không làm”).

Thao Giang cũng là người có công kéo đàn nhị trong đám ma ra sân khấu quốc tế đọ với nhiều nhạc cụ hiện đại khác, với tư cách nhạc cụ độc tấu. Ông từng giành huy chương trong đại hội thanh niên thế giới lần thứ 9 tại Bungari với tiếng đàn nhị. Về sáng tác, cho đến nay khó có tác phẩm độc tấu đàn nhị nào vượt qua được “Kể chuyện ngày mùa” của Thao Giang.

“Ông bầu” gánh xẩm chợ Đồng Xuân

“Cả thời thanh xuân”

Hỏi Thao Giang, mất bao nhiêu năm để cách tân đàn nhị? Ông trả lời như vậy và cười.

Tuổi trẻ bận bịu với nhị rồi lăn lộn qua nghiên cứu, giảng dạy, ở tuổi về chiều ông lại vướng vào xẩm (cũng dễ hiểu, vì nhị với xẩm, khác chi răng với môi).

Nếu cụ Hà Thị Cầu tôn vinh xẩm làng quê thì Thao Giang lại làm sống lại xẩm Hà thành, đã rơi vào quên lãng: “Từ năm 2005 tôi đã sưu tầm hát xẩm tàu điện, tôi thấy đây là di sản quí”.

Trong khi nghĩ đến xẩm không ít người liên tưởng đến ăn xin, ăn mày thì Thao Giang lại cảm nhận: “Xẩm thành thị tha thiết như dân ca Nga, đi vào lòng người êm dịu, từ từ. Nếu xẩm làng quê khai thác chất liệu ca dao cũ thì xẩm Hà thành lại hát những bài của Nguyễn Bính, Á Nam Trần Tuấn Khải… Tức là những bài hát có tác giả đàng hoàng”.

Tính bác học trong xẩm Hà thành ngày càng thu hút Thao Giang tìm hiểu. Về sau ngoài xẩm tàu điện, ông thu lượm thêm xẩm hát trên sông nước, hát trong nhà tơ (xẩm thính phòng), xẩm chợ.

Để giới thiệu diện mạo đầy đủ của xẩm Hà Nội tới công chúng, Thao Giang đã tổ chức một gánh hát biểu diễn tới 30 buổi khắp các phố cổ, vào dịp kỷ niệm Đại lễ.

Trong khi âm nhạc dân tộc và nhiều loại hình sân khấu truyền thống đang khát người xem thì con số 30 buổi diễn khắp phố cổ của gánh hát Thao Giang thật đáng nể. Gần chục năm nay, cứ thứ bảy hàng tuần, ông lại đưa gánh hát của mình biểu diễn miễn phí ở chợ Đồng Xuân.

“Ông bầu” nào cũng đặt lợi ích kinh tế lên hàng đầu còn khi hỏi đến tài chính Thao Giang chỉ cười: “Ồ, miễn phí mà. Không có tiền đâu”. Gặng hỏi ông cũng “bật mí”: Mỗi buổi diễn gánh hát được “tài trợ” sáu triệu đồng”.

Giật mình, nghĩ tới cát xê của mấy sao nhạc trẻ. Nghi ngờ: “Chắc buổi diễn nào anh cũng đãi khán giả món ăn như nhau, kinh phí hạn hẹp, làm sao “nấu ăn” ngon được?”.

Thao Giang lắc đầu: “Không đâu, phải đổi mới chứ. Không đổi mới thì ai chịu xem. Gần chục năm rồi, chưa có cuối tuần nào chúng tôi nghỉ diễn ở Đồng Xuân. Hồi trước mỗi buổi chỉ kéo dài một tiếng 15 phút, bây giờ lên tới hai tiếng rồi, vì yêu cầu của công chúng”.

Chẳng hiểu Thao Giang lấy đâu sức mạnh để đeo đuổi âm nhạc dân gian, vốn không thức thời: “Chúng tôi cố gắng hết sức. Chân lý cuối cùng: Nhân dân sáng tạo ra, nếu chúng ta làm tốt nhân dân nuôi dưỡng”, ông đáp.

“Sếp” không lương

“Cái mác” của Thao Giang bây giờ đủ sức lòe những kẻ hám danh lợi. Ngoài vai trò “bầu” gánh xẩm ông còn đang giữ vị trí Phó giám đốc của Trung tâm phát triển nghệ thuật âm nhạc Việt Nam. “Chức to thế, chắc anh cũng kiếm được?”.

Ông lại cười: “Không có gì đâu. Lương của tôi lại dành để phát triển trung tâm. Tôi nói với giám đốc, giáo sư Khang (GS.TS Phạm Minh Khang), lương về hưu của chúng ta cũng tạm ổn, nên thu nhập ở đây ta dành cho các em, để nuôi nấng thế hệ trẻ”.

Hiện tại, Trung tâm phát triển nghệ thuật âm nhạc Việt Nam đang phối hợp với Học viện Âm nhạc Huế, làm một việc vô cùng quan trọng: đào tạo hệ đại học âm nhạc dân gian, lần đầu tiên trong lịch sử âm nhạc nước nhà.

Có một chuyện Thao Giang kể nghe như… cổ tích: Vì lao động miệt mài, nên năm ngoái ông đổ bệnh nặng, phải nhập viện.

Đã lên bàn phẫu thuật nhưng do bác sỹ ở bộ phận gây mê có sơ suất, ông được tạm cho về. Không ngờ, từ ngày trở về, Thao Giang lại khỏe ra, như chưa từng có bệnh. Chắc vì ông “dại” nên trời thương chăng?

Không có trụ sở thì kêu Thành Hoàng

Chắc chẳng có trường học nào lại nằm trong đình như trường học do Thao Giang và những cộng sự thành lập. Nói đến cơ duyên được vào đình, vị nhạc sỹ này lại tâm đắc: “May được dân thương”.

Ông nhớ lại những ngày đầu gian khó: “Khi mới thành lập tất cả là con số không: Không người, không trụ sở, không tiền. Hồi ấy, tôi có thuê một trụ sở nhỏ để làm việc. Có vị vào thăm đã nói: “Cả trung tâm lớn thế này, mà trụ sở lại như chuồng cu”.

Thế mà đến cái chuồng cu ấy cũng không giữ được, người ta đòi nhà. Đang lúc lấn bấn, không tìm ra nơi chuyển đi, ông nói nửa đùa, nửa thật: “Phải xem Thành Hoàng ở đâu, ta tới kêu mới được”.

Chẳng ngờ hôm sau có mấy người ở đình Hào Nam đến nhờ ông luyện tập giúp cho đội văn nghệ của bà con khu vực đó. Thao Giang vui vẻ nhận lời. Cái sự hồn nhiên, nhiệt tình của ông đã giúp ông tìm ra lối thoát: Trung tâm đang bơ vơ đã có nơi an cư ngay trong đình.

Một căn nhà cấp bốn với đồ đạc đơn sơ chỉ có biển hiệu Trung tâm phát triển nghệ thuật âm nhạc Việt Nam là ngẩng cao kiêu hãnh nhưng Thao Giang rất đỗi hài lòng: “Từ chỗ không có trụ sở, bây giờ đã có rồi nhé. Lại ở ngay trong đình được chở che nên trung tâm lớn nhanh lắm”.

Ngoài việc đào tạo sinh viên đại học, Trung tâm của nhạc sỹ Thao Giang vẫn mở nhiều lớp học cho những ai yêu thích nghệ thuật dân tộc với mức giá “rẻ bèo”. Riêng những người yêu xẩm, Trung tâm sẵn sàng dạy miễn phí.

Báo giấy

Nhớ người hát xẩm đêm trăng

Sau khi đọc bài “Chuyện ít biết về ông Tổ nghề hát xẩm ở Việt Nam”, bạn đọc Đăng Nguyễn (Xuân Lộc, Thanh Thủy, Phú Thọ) đã có bài viết liên hệ đến ngày xưa được nghe hát xẩm trong các đêm trăng ở làng quê ông.

Một gánh hát xẩm ngày trước.

Quê tôi ở ven bờ sông Đà, người dân quanh năm ngày tháng chỉ biết cày cấy. Con người chẳng mấy ai thoát khỏi lũy tre làng. Ngày ấy đám trẻ con chúng tôi được theo chú, theo anh đi xem hát xẩm. Người hát xẩm không biết đến từ đâu, chỉ biết ông đi khắp ven sông từ làng này đến làng khác. Người hát xẩm thường là người khiếm thị, đi hát xẩm làm nghề nuôi thân. Đồ nghề của họ gồm một chiếc đàn bầu, một cây sáo trúc, một chậu đồng, một mảnh chiếu cói.

Mỗi khi người hát xẩm về làng, hàng trăm người tụ tập quây quần quanh người hát xẩm. Nhạc dạo ban đầu của người hát xẩm bằng tiếng đàn bầu nỉ non thánh thót. Tiếp đến là những câu vọng cổ, ca trù, làn điệu xẩm xoan… Sau đó “khán giả” giao duyên, mỗi người đều có những câu ca dao nghĩ trước từ nhà đem ra để nhờ người hát xẩm lên giọng ca giúp. Cứ thế đến tận khuya, trăng lên quá đỉnh đầu, trời lấm tấm sương đêm mọi người mới ra về. Nhờ những câu hát xẩm giao duyên mà có những đôi trai gái thành chồng thành vợ.

Ngày nay, không còn tiếng hát xẩm đêm trăng nữa, thay vào đó là những đoàn chèo, đoàn văn công, đoàn cải lương của tỉnh, của trung ương về phục vụ. Những ánh đèn sáng trưng, tiếng loa inh ỏi, nghệ sĩ được hóa trang lộng lẫy, điệu múa quay cuồng… nhưng tôi vẫn không quên được tiếng hát xẩm ngày xưa giữa đêm trăng thanh gió mát của làng quê yên tĩnh.

Đặng Nguyễn (Xuân Lộc, Thanh Thủy, Phú Thọ)

Độc đáo hò khoan xứ Lệ: Cội nguồn điệu hò

Lệ Thủy, dải đất hẹp nhất của đoạn thắt Quảng Bình với những điều kiện tự nhiên và con người khác biệt đã tạo nên giai điệu hò khoan độc đáo.

Lệ Thủy gạo trắng nước trong/Ai ơ về ơ về Lệ Thủy ơi người ơi/Hỡi người ơi người ơi thong dong/Hỡi người ơi người ơi thong dong/Ờ hơ ơ hơ, Lệ Thủy gạo trắng nước ơ trong

Theo nhà nghiên cứu Đặng Ngọc Tuân, đất và người ở đây đã được hun đúc trong đấu tranh sinh tồn với chiến tranh, bão lụt, gió Lào bỏng cháy suốt mấy ngàn năm chưa bao giờ yên. Sân khấu cuộc đời đó đã tạo nên hơi thở của dân ca; tâm hồn thi ca của con người đã hun đúc lên kết quả trên gian khó. Chiến tranh và thiên tai mất mùa, trắng tay, đói kém; đồng sâu, nước cả, lao động nhọc nhằn. Vậy nhưng con người vẫn phải sống, vẫn phải tròn bổn phận. Những tâm tư đó đã được gửi gắm vào trong dân ca mà than thở, mà san sẻ. Đó chính là cội nguồn cảm hứng của hò khoan Lệ Thủy.

Xứ Lệ Thủy sản sinh ra điệu hò khoan độc đáo – Ảnh: Ngọc Liên

Chẳng ở đâu như Lệ Thủy, vui hò hát đã đành, đằng này cái thú được hò hát len vào cả khi buồn, khi lao động mệt nhọc. Hò là hô là khoan/Hô khoan ơ hơ giọng hò khoan ừ hự ai ơi/Quê là mẹ ơ hồ/Hò là hô là khoan/Hô khoan ơ hơ giọng hò khoan ừ hự ai ơi/Quê là mẹ, mái ngân vang sớm chiều, ơ hờ/Hò là hô là khoan/Em lên trên rừng đốn một khúc gỗ là trắc/Là hô hồ khoan/Đem về em khắc chặt bốn câu thơ/Là hô hồ khoan/Câu thương câu nhớ câu đợi câu chờ… Hô khoan xin mời tất cả à xố ơi khoan.

Giá trị của hò khoan

Trong hò khoan, người ta quy ước rõ kiểu cách tham gia của từng thành viên. Bao giờ cũng có “hò cái” và “hò con”. Khi hò, hò cái là người “lĩnh xướng”, còn hò con là người “xố”. Cái hò thì con xố và vai diễn này cũng không cố định. Lúc này họ là hò cái và lúc sau họ lại đóng vai hò con “tất cả đều là nghệ sĩ”. Theo một số nhà nghiên cứu, hò khoan Lệ Thủy có 5 làn điệu cơ bản (có tài liệu nói 6 làn điệu hoặc 9 làn điệu; nhiều người gọi là “mái”): mái ruổi thuộc nhóm những mái hò sông nước chậm rãi, khoan thai; mái ba cũng là một làn điệu gắn với sông nước, mái hò tiêu biểu về tính linh hoạt trong ứng tác, hò mái ba thường dùng khi thuyền nặng, đi qua những quãng sông chảy xiết, ngược nước, ở nơi đầm phá gió to; mái xắp là làn điệu hay dùng trong khi giã gạo; mái chè được cấu trúc một đoạn ba câu với ba vế xố, thường là thể thơ lục bát, trong đó câu tám được bẻ làm đôi cho hai vế xố; mái nện thường được hò khi chèo thuyền, khi cày ruộng, khi đưa linh.

Trong quá trình phát triển, từ những làn điệu cơ bản đã nói, các nghệ nhân dân gian đã sáng tạo ra các “lối hò”. Lối hò, nói cách đơn giản đó là kiểu hò theo những lề lối ước định sẵn. Có thể kể ra đây nhiều lối hò quy ước sưu tầm được trong dân gian: hò nhân nghĩa, hò nhân nghĩa xa cách, nhân nghĩa kết vấn, hò giao duyên, hò xa cách, hò xa cách kết vấn, hò đền ơn, hò đâm bắt, hò bồn ba, hò đố, hò xấc leo, hò đấu trí, hò ghểnh, hò thợ mộc, hò lĩa trâu, hò Kiều, hò Tam Quốc, Lục Vân Tiên, Lưu Bình – Dương Lễ, Thoại Khanh – Châu Tuấn, hò giã gạo, hò đưa linh, hò lính mộ, hò bài chòi… “Bước tới nơi đây xin chào chung chào chạ/Có người khách lạ nên phải chào riêng; em không chào thì ra câu khinh lệ/Em mở lời chào thì tục lệ phân minh/Anh ở xa chưa rõ sự tình/Anh có đôi rồi chẳng biết, em một mình nỏ hay”, đây là một lối hò mở đầu trong hò giã gạo.

Theo nhà nghiên cứu Đặng Ngọc Tuân, trong số gần 2.000 câu hò sưu tầm được thấy rằng nội dung mà hò khoan đề cập rất phong phú, như tình yêu quê hương đất nước; nhắc nhủ con người sống giữ trọn chữ hiếu, chữ trung; tình nghĩa vợ chồng và tình yêu đôi lứa không thể thiếu trong hò khoan Lệ Thủy: “Gió mát trăng thanh bạn lành chưa thấy mặt/Thoảng nghe tiếng hò lúc nhặt, lúc khoan/Đêm nằm mà dạ không an/Nghe lời bạn thốt, băng ngàn ra đi”. Mỗi câu hò có thể dài ngắn tùy ý theo nội dung định nói, định diễn tả. Thường thì một câu hò khoan có kết cấu thể lục bát hoặc song thất lục bát. Song có những câu hò phá lệ được chắp nối nhiều ý xen vào giữa và giữ nhịp điệu tái lại nhiều lần trước khi vào câu kết. Chẳng hạn câu hò sau đây được coi là một trong những câu dài nhất trong kho tàng hò khoan Lệ Thủy: “Phụ mẫu em đòi chi anh đây đi cũng đủ/Lưng hũ hột xoài lưng oi hột mít/Một bì khoai lang một sàng bánh tổ/Một ổ gà ung một thùng mắm thúi/Một trịu cá rô một ang gạo thóc; một bọc chè tươi/Em về thưa với song thân phụ mẫu/Đến tối hai mươi anh sang nhà”.

Trong hò khoan nghệ thuật ẩn dụ, hoán dụ, nói lái, nhân hóa hay cách sử dụng nhuần nhị nhiều thành ngữ, tục ngữ, từ địa phương, từ đồng âm dị nghĩa. Sự kết hợp bởi lời thơ với tiếng đệm, tiếng lót, tiếng láy đạt đến đỉnh cao: “Hỏi anh chi sắc hơn dao/Chi sâu hơn biển, chi cao hơn trời”. Hay dùng cái cách nói lái: “Bánh đầy mâm răng gọi là bánh ít/Lửa không miệng răng lại nói lửa cười”.

Hò tiếc thương người ra đi

Hò đưa linh xuất hiện rất đậm đặc ở các xã ven sông Kiến Giang, cụ thể hơn đó là các xã mà người Lệ Thủy hay quen gọi “xã vùng dưới, vùng giữa”. Vùng này chiêm trũng thường bị lũ lụt liên miên hằng năm, mỗi đợt kéo dài nhiều ngày. Bởi vậy, cư dân ở đây thường đưa linh cữu người thân lên núi để an táng. Khi đi, người ta kết thuyền, đặt quan tài lên, chèo ngược dòng Kiến Giang. Chèo suốt đêm đến gần sáng, để kịp hạ huyệt khi mặt trời chưa ló rạng. Suốt chặng đường dài đó chỉ có tiếng phèng la, trống điểm và tiếng hò khoan.

Hò đưa linh thường là do các nghệ nhân làm “hò cái”, đội “âm công” là “hò con”, đế xố, diễn xướng. Vai trò các nghệ nhân dân gian trong hò đưa linh rất quan trọng bởi trong một không gian lễ nghi đượm chất buồn đau ấy thì người hò cái phải “thuộc bài”. Không những thế, người hò cái còn phải biết lựa chọn các mái hò sao cho âm hưởng của nó phù hợp với khung cảnh. Người hò con là thành viên trong đội âm công, được tập hợp từ các con, cháu, người thân của tang gia. Ngoài chức năng xố con, họ còn nhiệm vụ diễn xướng chèo cạn lúc ở nhà, lúc chèo thuyền đưa linh trên sông, lúc nện đất lấp mồ. Mới thấy hò khoan ở Lệ Thủy phong phú đến thế nào, máu hò khoan nhiều đến thế nào trong huyết quản của con dân Lệ Thủy.

Huệ Minh

Bài chòi Đà Nẵng được công nhận di sản văn hóa phi vật thể quốc gia

Ngày 29.11, Sở VH-TT TP.Đà Nẵng cho biết Nghệ thuật hô/hát bài chòi dân gian ở Đà Nẵng vừa được Bộ VH-TT-DL công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Đây là một trong những trò chơi dân gian mang hơi thở cuộc sống, luôn thu hút đông đảo bà con ở các cộng đồng dân cư tham gia. Không chỉ hiện diện trong những lễ hội ngày xuân, di sản nghệ thuật bài chòi dân gian Đà Nẵng đang được bảo tồn và phát huy, gắn với các điểm di tích lịch sử, văn hóa, các lễ hội truyền thống, phục vụ hoạt động vui chơi giải trí của người dân và du khách.

Cùng với Nghệ thuật bài chòi của Đà Nẵng, 16 di sản văn hóa phi vật thể đặc trưng của các địa phương khác cũng được công nhận trong đợt này bao gồm: Lễ hội đình Lưu Xá (Hà Nội), Lễ hội làng Quang Lang (Thái Bình), Lễ hội đền Cửa Ông (Quảng Ninh), Nghi lễ mừng sinh nhật (Hắt khoăn) của người Nùng (Bắc Kạn), Nghi lễ cấp sắc Tào của người Tày (Bắc Kạn), Lễ hội Đào Xá (Phú Thọ), Nghề thêu truyền thống ở Đông Cứu (Hà Nội), Hát trống quân (Hưng Yên), Trò diễn Pôồn Pôông của người Mường (Thanh Hóa), Nghề mộc Kim Bồng (Quảng Nam), Nghề khai thác yến sào Thanh Châu (Quảng Nam), Nghi lễ cấp sắc của người Dao (Sơn La), Lễ cúng dòng họ (Tu su) của người Mông (Sơn La), Nghi lễ tết nhảy của người Dao (Thái Nguyên), Lễ hội trò trám (Phú Thọ) và Nghề dệt Dèng (thổ cẩm) của người Tà Ôi (Thừa Thiên-Huế).

An Dy

Cải lương trẻ: Mới mẻ mà sâu sắc

Hai vở diễn Đời Như Ý và Cõng mẹ đi chơi của Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang đã thu hút đông khán giả đến rạp Thủ Đô. Đây là tín hiệu mới của sàn diễn cải lương đầy sức trẻ

Xu hướng đạo diễn trẻ gầy dựng sân khấu cải lương đã nhận được sự quan tâm chú ý đáng kể của công chúng với 2 vở diễn nổi bật là Đời Như Ý và Cõng mẹ đi chơi. Hai đạo diễn trẻ Phan Quốc Kiệt và Bùi Quốc Bảo đã thực sự ghi thêm điểm cộng trong hành trang nghệ thuật sau quá trình lăn lộn với nghề.

Cảm nhận vẻ đẹp của nghệ thuật dân tộc

Màn mở, sân khấu trống vài phút để khán giả choáng ngợp trước khung cảnh làng quê mộc mạc, yên bình trong câu chuyện của Đời Như Ý. Đạo diễn Phan Quốc Kiệt đã tạo nên bố cục không gian đúng chất Nam Bộ xưa để khán giả cảm nhận được hết cái đẹp từ cảnh trí, không như lâu nay khán giả của cải lương cứ quen mở màn là thấy diễn viên dù chưa cất tiếng nói. Chăm chút từng cảnh trí, đạo cụ; gia cố từng bước chân của nhân vật, Phan Quốc Kiệt đã tạo nên một phiên bản cải lương Đời Như Ý hoàn toàn khác với sân khấu kịch.

Cảnh trong vở Đời Như Ý của đạo diễn trẻ Phan Quốc Kiệt

Vốn là vở diễn đình đám của Nhà hát Thế Giới Trẻ, kịch bản mang tính văn học sâu sắc đã được soạn giả Hoàng Song Việt trau chuốt, đặt lời ca thật mượt mà, da diết, trong đó chuyển tải những thông điệp nhân nghĩa đậm chất cải lương. Khán giả khóc khi xem cảnh 2 đứa con nuôi của Hai Đời bị buộc phải chia cắt, để lại bến sông người cha mù lòa và bà mẹ bị bệnh tâm thần. Con gái của nghệ sĩ Tú Sương, bé Hồng Quyên, diễn xuất sắc vai bé Như và bé Gia Nguyên, con trai của nghệ sĩ Lê Hồng Thắm, đã diễn thật xúc động vai bé Ý.

Giúp 2 diễn viên nhí này thăng hoa trên sân khấu thực sự là một kỳ công của đạo diễn Phan Quốc Kiệt. Có thêm sự góp mặt hiệu quả của 2 diễn viên nhí đã khiến người xem rung động sâu sắc và cảm nhận được cái hồn tinh túy của nghệ thuật ca diễn được chuyển tải từ những thế hệ tương lai.

Chất liệu ngồn ngộn từ cuộc sống

Vốn là đạo diễn trẻ chắc tay bên sân khấu kịch, sự cống hiến của Bùi Quốc Bảo dành cho Nhà hát Thế Giới Trẻ được chứng minh bằng việc doanh thu của sân khấu xã hội hóa này ngày càng tăng. Khi sáng tác Cõng mẹ đi chơi, anh đã đưa rất nhiều chất liệu từ cuộc sống vào kịch bản. Sau đó, tác giả Hùng Dũng chuyển thể cải lương và Bùi Quốc Bảo lại một lần nữa thử thách mình qua việc dung nạp đời sống đương đại vào vở nhưng vẫn phải giữ được cái hồn của cải lương.

Bùi Quốc Bảo đã rất thận trọng khi quyết định kết thân với bộ môn này. Đạo diễn đã bám vào một thông điệp rất thực tế và khiến người xem nhận thấy phần nào đó tâm hồn của chính mình trên sàn diễn – đó là sự quan tâm tới những thân phận khác và tình người trĩu nặng trong cuộc sống. Những đứa trẻ bị bỏ rơi dễ dàng dính vào cạm bẫy. Những em bé không may bị tâm thần nhưng lại nhận được sự chăm sóc và cao cả hơn là tình người dành cho mảnh đời côi cút…

Khán giả trẻ trong rạp khóc sướt mướt khi xem bà mẹ có cá tính nóng nảy nhưng lại rất thương yêu các con, sẵn sàng nhận phần đau khổ để nuôi đứa con bị tâm thần dù gia cảnh nghèo khó.

Chất trẻ đáng ghi nhận ở 2 đạo diễn đang dấn thân vào cuộc gầy dựng lại sự quan tâm của khán thính giả đối với sân khấu cải lương đó là chịu khó tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm từ các bậc tiền bối. Đâu đó vẫn còn dấu ấn của những mảng, miếng xử lý của thế hệ các thầy cô song nổi bật vẫn là những khám phá mới mẻ mà nghệ thuật cải lương muốn hướng đến công chúng đương đại.

Về âm nhạc, cảnh trí và cả phục trang, cả 2 đạo diễn đã làm mới được vở diễn bằng khá nhiều chiêu thức xử lý từ sân khấu kịch nói khiến vở diễn trẻ trung và tới gần khán giả hơn nhưng không làm mất đi cái tinh túy nhất của cải lương. Diễn xuất của nghệ sĩ được chú trọng nâng cao với những dồn nén đẩy tới cao trào kịch tính và thay vì chỉ cho khán giả cảm giác ai oán, bi thương thì cải lương của 2 đạo diễn trẻ được vuốt nhẹ bằng những bài bản, câu vọng cổ ngọt ngào hơn là “hét” lên những thông điệp chát chúa. Xem xong vở diễn, có thể cảm nhận sự dịu mát, ngọt ngào như được uống ngụm nước dừa mát ngọt! Cảm xúc theo chân người xem rời rạp Thủ Đô về đến tận nhà và thầm mong sẽ quay lại để được khóc cười cùng đạo diễn trẻ qua nhiều vở cải lương khác nữa…

Tạo ra kết nối với khán giả đương đại

“Hai gương mặt đạo diễn trẻ này vốn không xa lạ với kịch và cải lương. Họ từng là khán giả ngồi trong góc khán phòng của nhiều vở diễn nên khi đặt mình vào hàng ghế người xem, họ đã biết điều gì cần làm, điều gì cần bỏ. Hai vở cải lương mới đóng dấu chất lượng của Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang trong thời buổi khó khăn đối với sân khấu lại là tâm huyết sáng tạo của 2 đạo diễn trẻ. Điều đó cho thấy ban giám đốc nhà hát này đã mạnh dạn giao vở cho đạo diễn trẻ, tạo cơ hội cho thế hệ nghệ sĩ đương đại và cũng góp phần làm bền chặt hơn sợi dây kết nối với khán giả của nghệ thuật đương đại” – đạo diễn, NSƯT Trần Minh Ngọc nói.

Theo:  NLD Bài và ảnh: Thanh Hiệp

Hát Trống Quân

Hát trống quân là một lối hát giao duyên ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thường được tổ chức vào ban đêm, dưới trăng mùa thu, trong lúc có hội hè hoặc khi dân làng rảnh rỗi để phô diễn tài nghệ đối đáp và trao đổi tâm tình trai gái. Gọi là hát trống quân vì lối hát ấy phải cần đến một nhạc cụ gồm có một cái thùng trống và một sợi dây căng ngang lên trên

Hát trống quân là một lối hát giao duyên ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thường được tổ chức vào ban đêm, dưới trăng mùa thu, trong lúc có hội hè hoặc khi dân làng rảnh rỗi để phô diễn tài nghệ đối đáp và trao đổi tâm tình trai gái. Gọi là hát trống quân vì lối hát ấy phải cần đến một nhạc cụ gồm có một cái thùng trống và một sợi dây căng ngang lên trên, để khi dứt câu hát có tiếng trống đệm vào “Thình, thùng thình”. Hát trống quân xưa phổ biến rộng rãi khắp vùng.

Người hát trống quân nổi tiếng là cụ Vũ Đình Xuyến ở Hiệp Cường – Kim Động. Hội điểm hát trống quân lâu bền nhất là các làng thuộc huyện Ân Thi, Khoái Châu, Văn Giang: Trai làng Xuân Cầu với gái làng Khúc Lộng (Văn Giang), trai làng Tào xã Thúc Kháng (Hải Dương) với gái làng Đào Quạt, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi, hát trống quân xã Dạ Trạch (Khoái Châu).

Hàng năm, cứ vào dịp mùa thu, Tào Khê và Đào Xá lại mở hội hát trống quân từ chập tối tới quá nửa đêm và kéo dài hết tuần trăng. Ngày hội, dân hai bên bờ sông nườm nượp kéo về đình Đào Quạt, về đê Tào Khê để hát, “xui hát”, nghe hát. Nơi đây ngày xưa là quê của Bà Chúa hát, là quê của cố thi sĩ Phạm Huy Thông.

Diễn tiến của “canh” hát trống quân gồm có: hát gọi, hát đáp, hát chào, hát mời trầu, hát giao hẹn đến hát ướm, hát thách và cuối cùng là hát hoa, hát đối đáp…

Dưới đây là đoạn hát đối đáp của hội trống quân Đào – Tào. Nam (Hỏi): Những mong hiểu rộng biết dài Hỏi thăm bên đó có ai chung tình? Nữ: (Đáp) Xinh xinh cái nấm trúc xinh Đệ nhất chung tình có Chử Đồng Tử – Tiên Dung. Nữ (Hỏi): Hai bờ chung một dòng sông Hào kiệt anh hùng bên ấy là ai? Nam (Đáp): Lời vàng như nắng ban mai Đệ nhất anh tài là Tiết chế Hưng Đạo Vương. Cứ như vậy, hỏi và đáp về danh thắng, danh nhân của mỗi quê. Canh hát kết thúc bằng những câu hai bên hò hẹn tối mai lại hát tiếp. Giống như dân ca quan họ, có thời trống quân được ưa thích như hát chèo. Hát trống quân cần được bảo tồn trong cuộc sống hôm nay. (Theo báo Hà Nam)

Tìm hiểu Dân Ca Việt Nam

Dân ca Việt Nam rất là phong phú. Tất cả những bài ca do dân quê sáng tác và không thuộc nhạc triều đình, nhạc thính phòng, nhạc tôn giáo thì được xếp vào loại dân ca. Xứ Việt Nam với gần 80 triệu người Việt và 53 sắc tộc khác nhau thừa hương một truyền thống dân ca đa diện. Ðịnh nghĩa danh từ dân ca, theo tôi, là những bài ca không biết ai là tác giả, được truyền miệng từ đời này sang đời khác, dính liền với đời sống hàng ngày của người dân quê, từ bài hát ru con, sang các bài hát trẻ em lúc vui chơi, đến các loại hát lúc làm việc, hát đối đáp lúc lễ hội thường niên. Dân ca lại mang một màu sắc địa phương đặc biệt, tùy theo phong tục, ngôn ngữ, giọng nói, và âm nhạc tính từng vùng mà khác đi đôi chút.

Tìm hiểu Dân Ca Việt Nam

Nhưng nhìn chung, vẫn là bài hát thoát thai từ lòng dân quê với tính chất mộc mạc, giản dị của nọ Dân ca Việt Nam được trình bày theo trình tự một đời người, nghĩa là bắt đầu bằng các bài hát ru em khi em bé bắt đầu chào đời, đến khi đứa bé lớn lên, trương thành và chết đi, sẽ có những bài hát liên hệ đến từng giai đoạn của một đời người. Tôi xin bàn về các bài hát ru em và các bài hát nghe trong lúc trẻ em vui chơi, nô đùạ Chúng ta thường nghe lúc còn ấu thơ, được chị, mẹ hay bà ngoại hoặc bà nội ru cho ngủ. Loại hát này được gọi là hát ru (miền Bắc), ru con (miền Trung), hay hát đưa em, ầu ơ ví dầu (miền Nam).

Âm giai dùng trong loại hát ru em được thay đổi tùy theo vùng. Ở miền Bắc, hát ru dựa vào thang âm ngũ cung (do-ré-fa-sol-la-do). Miền Trung sử dụng âm giai tứ cung (do-fa-sol-sib-do), và miền Nam thì chọn âm giai ngũ cung (do-mib-fa-la-do). Người mẹ thường bày tỏ nỗi lòng của mình, hay than van số phận hẩm hiu của mình qua bài ầu ơ ví dầụ Lời ca thường lấy trong ca dao và thể thơ là lục bát. Ầu ơ Gió đưa bụi chuối sau hè Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ Con thơ tay ẩm tay bồng Tay dắt mẹ chồng đầu đội thúng bông.

Ðến khi đứa trẻ lớn lên, trong lúc chơi giỡn thường hay hát những bài mà đa số các giai điệu đều dựa trên thang âm tam cung (do-fa-sol). Chẳng hạn, khi chơi ú tìm, các trẻ em để ngón tay trỏ của mình vào trong lòng bàn tay của một em trong bọn. Một đứa trẻ hát: Chi chi chành chành Cái đanh thổi lửa Con ngựa chết chương Ba vương thượng hạ Ba cạ đi tìm Ú tim oà ập. Khi nói tới tiếng “ập” thì bàn tay nắm được ngón tay người nào thì người đó nhắm mắt đếm để cho những người khác chạy đi trốn.

Ngoài ra còn có những trò chơi khác như đánh trõng, táng u, đánh dũa, hoặc là oánh tù tì (từ chữ Anh là one, two, three, nghĩa là một, hai, ba) giúp cho trẻ em Việt Nam giải trí trong khi nhàn rỗi, ngoài giờ học hỏi ở nhà trường. HÒ Hò từ chữ HÔ mà ra, có nghĩa là làm cho giọng mình manh hơn.

Do đó, Hò thường đi đôi với việc làm nặng như kéo gỗ, chèo thuyền, đập đạ Nhưng hò cũng có thể hát lúc nghỉ ngơi, lúc hội hè, lúc đám tang như hò đưa linh, và có khi dính liền với một vùng nào đó như hò Nghệ An, hò Thanh Hóa, hò Sông Mã, hò Ðồng Tháp. Có ba loại Hò chánh: Hò trong lúc làm việc, tiết điệu ăn khớp với động tác, và thường dùng những chữ như dô ta, rố khoan, hụ là khoan, vv… Hò trong lúc nghỉ xả hơi, thường là hò đối giữa trai gái có tính cách đùa giỡn, chọc ghẹo hay tỏ tình. Hò trong lúc lễ hội, thường là hò đối đáp để tranh giải. Hò làm việc thường hò đông người với nhaụ

Một người hò trước và tất cả phụ họa theo saụ Người hò chánh gọi là hò cái và những người phụ họa gọi là hò con. Hò chia làm hai phần: lớp trống hay vế kể thì do một người hát, còn lớp mái hay vế xô thì do toàn thể phụ họa. Ở miền Nam, hò thường nghe trên sông, hay lúc làm việc ngoài ruộng. Mỗi tỉnh, mỗi vùng có những loại hò đặc biệt. Do đó có tên gọi như hò Bến Tre, hò Cần Thơ, hò Ðồng Tháp. Ở tỉnh Bến Tre, có thể có loại hò như sau: Hò ớ ơ Xứ nào vui cho bằng xứ Cù Lao, ớ ợ Hò ớ ợ Tiếng muỗi kêu như ống sáo thổi Bông mọc như hàng rào sương lý, ớ ợ Hoặc xuyên qua câu hò, chúng ta có thể biết người hò thuộc địa phương nào như: Hò, ớ ơ. Ghe anh nhỏ mũi trắng lườn Ở trên Gia Ðịnh xuống vườn thăm em, ớ ơ. Hò miền Nam gồm có hò ba lý xuất xứ từ bài Bá Lý Hề của cải lương rất được thông dụng giữa các ca sĩ chuyên nghiệp. Hò theo điệu ai oán dùng để kể chuyện.

A li hò lờ xuất hiện khoảng 50 năm nay thôi, dùng thể thơ lục bát. Hò lô tô, hò cấy, vv… Các loại hò thường được ứng khẩu tùy hứng, nhạc thì chỉ có một giai điệu duy nhứt, hay theo một thang âm đặc biệt miền Nam (do-mib-fa-sol-la-do). Miền Trung là nơi tập trung của nhiều loại hò và nhiều giai điệu hơn hai miền Bắc và Nam. Ngoài loại hò làm việc, hò đối, còn có hò đưa đám mạ Ở Thanh Hóa có hò sông Mã được chia làm năm loại hò tùy theo giai đoạn: hò rời bến, hò đò ngược, hò đò xuôi, hò mắc cạn, hò cập bến, với các đoạn kể, xô nhịp nhàng theo nhịp một, nhịp hai. Trong khi chèo thuyền, chúng ta còn được nghe các loại hò mái xấp, hò mái nhì, hò mái đẩy.

Có giả thuyết cho rằng mái có nghĩa là mái chèo, và còn có giả thuyết khác nữa cho rằng mái là đàn bà đối với trống là đàn ông. Còn xấp có nghĩa là mau hơn, nhì có nghĩa là đôi, là phải hát hai lần, còn đẩy có nghĩa là làm cho thuyền đi tớị Ở vùng Thừa Thiên, Quảng Trị còn nghe hò mái ba nghĩa là phải hát ba lần. Các loại hò làm việc như hò đạp nước, hò tát nước, hò khiêng nước, hò xay lúa, hò giã gạo, hò giã đậu, hò giã vôi, hò mài dừa,v.v… Khi leo giốc, thì có hò leo dốc. Khi đập đá thì có hò nện hay hò hụị Tiết tấu rất nhanh, và theo nhịp đập đạ Người kể hát một đoạn, thì toàn thể hát “hụ là khoan” để làm tăng sức mạnh khi làm việc.

Ở miền Bắc, hò đẩy xe, hò kéo gỗ rất được phổ thông. Một người hát một câu thì cả đám hát rố khoan, rố khoan rố khuầy hay hố khoan trong điệu bắt cái hố khoan hay bắt cá hò khoan do các người chài lưới hát. Ngoài ra, chúng ta còn tìm thấy điệu hò giã vôi và hò dứt chỉ ở miền Bắc nữa. Hầu hết các điệu hò ở Việt Nam đều dùng thể thơ lục bát với thể thức thêm những chữ không có nghĩa vào như “là hụ là khoan, rố khoan rố khuầy”, v.v…

Với nghệ thuật ngắt câu khác nhau tùy theo từng điệu hò hoàn toàn khác biệt và phong phú qua tài sáng tác của các người dân quê, kho tàng dân ca do đó ngày càng to lớn hơn và xuyên qua các lời ca trong điệu hò, chúng ta thấy một nền văn chương bình dân phản ảnh trung thực ngôn ngữ của tiếng nói Việt Nam. LÝ Miền Nam có rất nhiều điệu hò và lỵ Những bài nào không thuộc vào hò thì là lỵ Có Lý chim khuyên, Lý bông lựu, Lý chuồn chuồn, Lý cây chanh, Lý chè hương, Lý bỏ bìa, Lý con khỉ đột, Lý ngựa ô, Lý quạ kêu. Lời ca rất mộc mạc, chỉ hai câu thơ lục bát trong bài Lý chim khuyên như: Chim khuyên ăn trái nhãn lồng Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi mà được hát thành: Chim khuyên (quầy a) ăn trái (quây a) Nhãn lồng (à), nhãn lồng , ớ con bạn mình ơi ! Lia thia (quầy a) quen chậu (quây a) Vợ chồng (à), vợ chồng, ớ con bạn quen hơi. Miền Trung có thể nói là trung tâm của các điệu lý và họ Lý có nghĩa là hát của giai cấp dân quê (do chữ lý làng mà ra), so với Ca Huế thuộc giai cấp vua chúa, quan liêu trí thức.

Tất cả điệu lý được thoát thai từ các bài hát chèo, ca Huế, hát tuồng, và hát cải lương. Ðiệu lý giao duyên bốn mùa hay lý vọng phu được hát theo điệu Nam ai Trung chuyển sang Ai Oán Nam khi xuống tới miền Nam và trở thành lý bốn mùa hay lý ru con. Thể thơ được dùng là thất ngôn: Thí dụ như: Giãi sông Ngân mây rầu rầu chuyển Một bước đường trời biển chia hai Hỡi nàng nàng ơi! Anh dặn một lời xưa nhớ đừng quên. Từ đó các nhà nho mới đem vào Ca Huế và đổi tên lại thành lý giao duyên 12 tháng như: Ðầu tháng giêng mãn thiên xuân sắc Ai nấy vui mưng thiếp bặt mắt trông Qua tháng hai bông hoa nhài ướm nở Thiếp luống trông chàng vừa trở gió đông, v.v…

Hát giao duyên với loại thơ thất ngôn cũng được dùng trong hát chèo. Ðến khi bài Lý giao duyên được sử dụng với thể thơ lục bát qua hai câu thơ: Ai đem con sáo sang sông Ðể cho con sáo sổ lồng bay xa. Thì lại được đổi lại là Lý con sáo. Ðiệu Lý con sáo rất được quãng bá ở ba miền Bắc, Trung, Nam. Mỗi miền với thang âm đặc thù đã tạo ra ba điệu lý khác nhau: Lý con sáo Bắc, Lý con sáo Trung, và Lý con sáo Nam. Ngoài ra, chúng ta còn biết thêm một điệu Lý con sáo nữa là Lý con sáo Quảng. Ở Thừa Thiên, khi hát bài lý con sáo, thay vì hát đoạn “ơi người ơi”, lại hát “tang tình tang”. Bài lý con sáo được gọi là Lý tình tang,và khi hát bài 10 thương thì được đổi thành lý mười thương. Các điệu lý đều dựa trên thể thơ lục bát trên âm giai tứ cung nhu bài lý ba cô, lý lượn, hoặc âm giai ngũ cung như bài lý bắt bướm hay lý cây đa. Nghệ thuật sử dụng thể thơ lục bát của người Việt rất tài tình.

Qua hai bài Lý con sáo Trung và Nam, chúng ta nhận thấy dân tộc Việt Nam đưa vào những tiếng đệm bằng cách lập lại những chữ trong câu chẳng hạn nhu “í a, ố tang tình tang”, vv mà làm cho nhạc điệu trở nên phong phú vô cùng. Dân ca do đó đi sâu vào lòng dân và đôi khi còn ảnh hương rất mạnh vào nhạc thính phòng Ca Huế hay Ðàn Tài Tử miền Nam hoặc vào các điệu hát Chèo, Cải lương. Hát hội Hát hội là loại hát đối giữa trai gái tùy hứng ca hát đối đáp thi tài cao thấp trong những dịp lễ đầu xuân hay thu, hoặc khi đêm trăng thanh gió mát sau một ngày làm việc mệt nhọc ngoài đồng. Hát hội có nhiều loại: hát trống quân, hát quan họ, cò lả ở vùng Bắc Ninh, hát đúm ở Hải Dương, hát phường vải ở Nghệ Tĩnh, hát ghẹo ở Thanh Hóa, hát xoan ở Phú Thọ, v.v..

Hát hội hay hát đối đều mang những đặc điểm chung như sau: Người hát, làng xã, phải đối nhau chẳng hạn nhóm nam ca sĩ đối lại với nhóm nữ ca sĩ, và thuộc làng xã khác nhau Hầu hết đều là tình ca để đưa đến hôn nhân. Ðặc tính đoàn thể rất được nhấn mạnh, như trong quan họ có tục kết bạn và phải thuộc vào gia đình quan ho Truyền thống này được thấy ở hát ghẹo ở Thanh Hóa, và hát xoan ở Phú Thọ có tục lệ “nước nghĩa”. Thi đua là một trong những đặc tính quan trọng.

Trong một cuộc hát đối, các người hát thi đua về trí nhớ, lời ca, óc nhạy bén, phải tùy cơ ứng biến, khi gặp khó khăn, tài sáng tác tùy hứng, và kỹ thuật ca hát phải có trình độ cao. Do đó, các làng xã xứ ta thường hay tổ chức hát lấy giải. Ðặc tính bán chuyên nghiệp. Người hát quan họ phải thuộc một số bài căn bản, phải luyện tập thường xuyên. Do đó mới có tục lệ ngủ bọn, nghĩa là các người hát cùng chung một nhóm thường tựu hợp ở nhà của một người trong bọn, ăn ngủ tại đó để có thì giờ học tập với nhau và tập hát gọi là bẽ giọng. Hát hội xảy ra trong một phạm vi địa lý nhỏ hẹp, nhứt là ở Bắc Ninh, Thanh Hóa, Phú Thọ miền Bắc xứ Việt Nam mà thôi.

Mỗi cuộc thi hát như thế thường chia làm ba hay bốn giai đoạn: Hát mời ăn trầu trong trống quân Hát giọng lề lối trong quan họ Hát dạo, hát chào, hát mừng, hát hỏi trong hát phường vải Hát dạo, hát mừng, hát thăm trong hát ghẹo Sau khi hát mở đầu thì đến phần hát thi. Phần này, bắt đầu các bài hát khó vì phải sáng tác tại chỗ, như hát trả lời câu đố trong trống quân, giọng sỗng, giọng vặt trong quan họ,hát đố, hát đối trong phường vải, và hát đối, hát đố, hát xe kết trong hát ghẹo. Chẳng hạn như trong bài hát trả lời câu đố trong trống quân, bên gái ra câu đố thì bên trai phải giải cho trúng và đố lại. Bên nào không đối được thì kể như thua.

Loại hát này được đệm bằng một nhạc khí đặc biệt là cây trống quân hay thổ cô. Một cây mây dài bốn, năm thước căng vòng cầu bắt ngang một cái hố được đào ngay điểm giữa cây mây. Một người hát đánh vào cây mây để đệm, tạo âm thanh giống như tiếng trống. Cuộc thi hát tiếp tục sang giai đoạn ba với các bài hát khen tặng trong trống quân, hát mời, hát xe kết trong phường vải, và giọng hãm, giọng huỳnh trong quan họ. Sau cùng là hát tiễn như trong phường vải, hát giã bạn trong quan họ, hát thề, hát dặn, hát tiễn trong hát ghẹo. Hò, lý, hát hội với Trống quân, Quan Họ, Hát phường vải, Hát ghẹo, Hát xoan, cò lả,vv… rất gần với chúng ta qua lời ca đơn giản, diễn đạt tất cả hình ảnh sống động của xã hội nông thôn Việt Nam và mỗi người hát là một nhà thơ. HÁT VÈ / NÓI VÈ Vè là một bài văn kể một chuyện đặc biệt xảy ra và ngụ ý khen chê. Bài văn làm theo thể thơ bốn chữ, năm chữ, lục bát, hay song thất lục bát hoặc các thể thơ biến thể.

Hát những câu vè thường lấy giọng đọc lên, không có đệm trên, đệm giữa, hay đệm dưới như các lối hát dân ca khác, nhưng dựa trên nhịp 2/4. Ở miền Nam, những câu vè về trái cây, các loại cá, các thứ bánh, vv… ngoài lối vè kể chuyện. Các câu vè thường bắt đầu bằng sáu chữ Nghe vẻ nghe ve Nghe ve Thí dụ vè trái cây: Nghe vẻ nghe ve Nghe vè trái cây Dây ở trên mây Là trái đậu rồng Có vợ có chồng Là trái đu đủ Chặt ra nhiều mủ Là trái mít ướt Hình tựa gà xước Vốn thiệt trái thơm Cái đầu chơm bơm Ðúng là bắp nấu Hình thù xâu xấu Trái cà dái dê Ngứa mà gãi mê Là trái mắt mèo v.v…

Hát vè để tiêu khiển trong lúc làm việc, hát lúc nhàn rỗi một mình. Hát vè không có nhạc, nhưng có tiết điệu. Gần đây ở Việt Nam, có nhiều nhóm nhạc trẻ đã chuyển hát vè thành nhạc Rap rất được ưa thích. Dân ca Việt Nam rất phong phú, đa dạng, dính liền với bài ca hơn là với dàn nhạc, và nhạc khí. Dân ca đi liền với tiếng hát ru, đồng dao, trò chơi trẻ em, đến các điệu hò, lý, các điệu hát trong khi làm việc, trong các lễ hội tạo cơ hội cho thế hệ gặp nhau qua các loại hát giao duyên, qua tục “nước nghĩa”, “kết bạn”, “ngủ bọn “. Mức sáng tác bài bản mới vượt qua những thể loại nhạc cung đình, nhạc bác học, nhạc thính phòng và đưa vào trong văn chương bình dân những đóng góp đáng kể (hát quan họ, hát phường vải). Phần nhiều chỉ có tùy hứng lời trên một điệu nhạc (hát trống quân, cò lả).

Chỉ có hát quan họ là vừa sáng tác lời lẫn nhạc. Hiện có trên 700 làn điệu khác nhau trong truyền thống hát quan họ. Hiểu được dân ca Việt Nam sẽ mang lại một niềm tự hào cho chính mình, tạo một sự hãnh diện trong lòng khi xứ mình có một nền văn học dân gian phong phụ Ngoài dân tộc Việt hay Kinh, chúng ta còn có 53 sắc tộc anh em sống rải rác trên khắp lãnh thổ Việt Nam với hàng trăm thể loại dân ca, nhạc khí hoàn toàn khác với dân tộc Việt. Ðó là đề tài nghiên cứu trong tương lai. Trần Quang Hải, Paris, Pháp

Dân ca Nam Bộ

Nói đến nghệ thuật ca hát dân gian cổ truyền Nam Bộ mà chỉ đóng khung trong một số làn điệu vọng cổ hay bài bản Cải lương, ca nhạc tài tử, thì quả chưa đầy đủ. Mặc dầu chúng ta không phủ nhận tính hấp dẫn, yếu tố truyền cảm gây xúc động mạnh của các thể loại ca hát đó, nhưng đứng trên góc độ nghiên cứu mà xem xét, thì sự phiến diện nói trên có thể đưa đến những nhận định không toàn diện, và hiện tượng nhầm lẫn giữa ngọn và gốc có thể xảy ra.

Nội dung vấn đề trao đổi của bài viết này nhằm tìm hiểu tính chất phong phú của nền dân ca Nam Bộ, một bộ phận trong kho tàng âm điệu dân gian phong phú và quí báu của đất nước ta. Nói đến Nam Bộ, chúng ta nghĩ đến một vùng đất màu mỡ có phong cảnh thiên nhiên xinh đẹp hữu tình, có tài nguyên giàu có, trù phú.

Không thể quên được con người Nam Bộ với tính tình cởi mở, hào hiệp, nặng nghĩa nhiều tình… mà hình như đất nước thiêng liêng đã dành riêng cho mảnh đất phương Nam này! Từ Đồng Nai, Long Khánh, Biên Hòa, Đất Đỏ… với những lô cao su thẳng tắp, bạt ngàn, sừng sững hiên ngang… như muốn vươn lên hàng triệu cánh tay xanh biếc, rậm dày… che kín cả khoảng trời mênh mông… chúng ta đi dần xuống miền châu thổ Cửu Long với những cái tên nghe “là lạ” “dễ thương” như: Mỹ Tho, Bến Tre, Long Xuyên, Cần Thơ, Rạch Giá… băng qua những “tấm thảm vàng tươi” đang óng ánh trĩu cành phơi mình dưới ánh nắng chói chang của miền gần xích đạo.

Sau đó, chúng ta sẽ được nhẹ nhàng, ung dung khua từng nhịp chèo nhặt khoan trên những dòng kênh lăn tăn gợn sóng, dưới những rặng dừa xanh vào những buổi chiều êm đẹp… rồi để có dịp bâng khuâng nghe những câu hò về đêm ngân vang dòng sông, bến nước… và khi tới tỉnh Minh Hải lắm cá nhiều tôm, đặt chân lên mũi Viên An, mỏm đất tận cùng của quê hương phương Nam… nghe biển Đông sóng vỗ quanh năm, một lần nữa, chúng ta càng được khẳng định thêm về khả năng vĩ đại chinh phục thiên nhiên, cải tạo hiện thực của con người trước bao nhiêu biến cố. Phải chăng phong cảnh thiên nhiên của thực tại vốn tràn đầy thơ mộng, nên càng khơi nguồn âm điệu dạt dào cho dân ca Nam Bộ giàu chất trữ tình, đậm màu thi vị… chắp cánh cho những hoài bão ước mơ sớm trở thành hiện thực…

Chúng ta hãy làm quen với một đoạn hò tâm tình: … Hò ơi!… Nho nhỏ như ai, chớ còn nho nhỏ như em đây luôn chặt dạ bền lòng. Dẫu cho nước Đồng Nai có chảy cạn, đá Đồng Nai có bị mòn, thì thủy chung như nhứt, trước sau em vẫn giữ sắt son lời nguyền… ơ (Hò miền Đông Nam Bộ) Hay những lời “oán trách” nhau trong điệu hò Trà Vinh: Hò ơi… Tay cắt tay bao nỡ… ruột cắt ruột sao đành! Một lời thề biển cạn non xanh. Chim kêu dưới suối, vượn hú trên nhành, qua không bỏ bậu ơ ơ… mà sao bậu đành bỏ qua ơ ơ…

Cũng như tên nhiều miền của đất nước, hò là một điệu dân ca phổ biến ở Nam Bộ nói riêng. Hò được gắn liền với sông nước, với khung cảnh êm ả, phẳng lặng. Với một âm hưởng phóng khoáng, tự do, mang ít nhiều nhân tố “tự sự”, “vịnh thán”, hò thường được dùng để ngợi ca hay đề cao một đạo lý tốt đẹp nào đấy như lòng chung thủy sắt son, niềm tin yêu chặt dạ bền lòng… Âm điệu của các thể loại hò ở từng địa phương thường không giống nhau về chi tiết luyến láy, về cách xử lý các “âm điệu” giữa câu, hay có đôi khi cũng khác nhau về kết cấu toàn bộ. Thí dụ như: hò Đồng Tháp thì kết ở một nốt thuộc “át âm”, nhưng trong lúc tuy cùng một điêu thức “xon”, nhưng hò Miền Đông, hò Bạc Liêu, hò Gia Ninh, thì lại dùng nốt chủ âm để kết hoàn toàn.

Việc xử lý kếu cấu này tùy thuộc vào phong cách, vào nội dung của từng vùng, nhằm thể hiện được tính cách riêng biệt, màu sắc độc đáo, chứ không phải là không có dụng ý. Thông thường do ý nghĩa của nội dung lời hò giữ vai trò quyết định, nên giai điệu của hò này được tiến hành theo đường nét bình ổn, “lên dần” hoặc “xuống dần”, cố tránh những bước nhảy quãng đột xuất, nhằm tạo ra một phong vị êm đềm, nhẹ nhàng như kiểu “ngân nga, tự sự”, nặng đi vào chiều sâu lắng hơn là ầm ĩ, huyên náo. Hoàn cảnh xã hội ngày càng thay đổi, nên nội dung và hình thức hò cũng được cải biên và bổ sung cho thích hợp.

Ví dụ như, khi Mặt trận Bình dân bên Pháp chiếm được nhiều thắng lợi trên địa hạt chính trị, thì ở Nam Bộ, kế bên những loại hò mộc, hò huê tình, hò đối, hò thơ, hò truyện… lại xuất hiện thêm một loại hò gọi là hò quốc sự. Nội dung hò quốc sự đề cập đến những vấn đề chính trị cổ vũ và động viên tinh thần yêu nước của quần chúng. Sau đây là một đoạn của hò quốc sự. Nữ (vấn): Hò ơi! Trên đời mọi vật bẩn nhơ Đều nhờ rửa nước trở nên trong lành Đến khi nước phải nhơ tanh Lấy gì mà rửa xin anh phân cùng… Nam (đáp): Hò ơi! Em ơi trải bao thế hệ oai hùng Nước nhà lâm nạn anh hùng ra tay Hi sinh bao quản thân dài Máu đào từng rửa, “nước” rày thành trong… Nội dung lớn của hò phần lớn dựa trên cơ sở của lối thơ lục bát, nhưng khi xử lý thì có thể giữ nguyên, hoặc có khi lại mở rộng dài hơn để khớp với âm điệu của câu hò. Vì thế việc sáng tác ra những câu hò được đông đảo quần chúng tham gia dễ dàng và nhanh chóng thu hút được sự hâm mộ của quần chúng. Về tháng Bảy Âm lịch, thường là mùa cấy rộ và cũng là lúc mà các “vạn” cấy (như phường, hội) được có dịp trổ tài vừa cấy giỏi lại vừa hò hay… và dĩ nhiên sau những lần gặp gỡ, biết mặt… biết tài nhau… là đến những lời hò hẹn cho những ngày sau mùa gặt hái…

Kế bên những điệu hò trữ tình, êm dịu, dân ca Nam Bộ còn bao gồm những bài hát lý (hay là những điệu lý). Lý là những khúc hát ngắn gọn, vui tươi, dí dỏm, mang tính chất lạc quan yêu đời rõ nét với các nhịp điệu phong phú và sinh động. Như bài Lý ngựa ô (Nam Bộ): Lý con ngựa… ngựa ô (2 lần) Anh tra khớp bạc, lục lạc đồng đen Búp sen lá đậm – Dây cương đầm thấm Cán roi anh bịt đồng thà… Lá anh í a đưa nàng… là anh đưa nàng về dinh (2 lần) …

Nhưng cũng có khi, lý lại được pha lẫn vào chút ít màu sắc trữ tình man mác như bài Lý lu là: Ai về giòng dứa mà qua truông Nhắn thăm lu là với bậu ơ bậu ơi! Bỏ buồn cho nàng ơi! mà cho ai? Bỏ buồn cho nàng ơi! mà cho anh! Xét về phương diện âm hưởng nói chung toát ra từ các điệu hò và Lý Nam Bộ, chúng ta rút ra được chất tinh khiết, chân thật, tuy mộc mạc, pha lẫn chút ít âm điệu mênh mông của hò, với nhịp điệu sinh động, vui phơi phới đầy tươi mát của các điệu lý.

Đặc biệt về mặt kết cấu, lý cũng có những phân biệt câu cú, khúc, đoạn rõ ràng. Sự trình bày phần âm điệu được mạch lạc, có tính nhất quán toàn bộ, và dễ phát hiện, không cầu kỳ, phức tạp, ngổn ngang. Cách vận dụng và xử lý các hệ thống điệu thức dân gian 5 cung hoặc 7 cung, hoặc 5 cung có thêm bớt bất thường trong thể loại lý, càng tạo thêm được nhiều sắc thái về giọng điệu, càng làm phong phú thêm, mở rộng ra nhiều khả năng kết hợp chặt chẽ giữa âm điệu và ngôn ngữ. Hiện nay, theo chỗ chúng tôi được biết thì các cơ sở nghiên cứu đã sưu tầm và chỉnh lý hơn 40 điệu lý như: Lý con sáo, Lý giao duyên, Lý cây bông, Lý chúc rượu, Lý chia tay, Lý cây gòn, Lý con chuột, Lý bình vôi v.v… Mỗi điệu lý nói trên đều có một nội dung rõ rệt, hoặc phổ biến những kinh nghiệm sản xuất (như Lý đất dòng chẳng hạn), hoặc ca ngợi những đức tính tốt trong cuộc sống (như Lý Ba Tri), cái đẹp trong thiên nhiên (Lý cây xanh) hoặc oán trách nhau (như Lý lu là) hoặc mỉa mai, châm biếm bọn lý trưởng, cường hào (như Lý con chuột, Lý bình vôi, Lý con sam).

Các chủ đề nhạc trong các điệu lý rất nhiều vẻ, dưới những hình thức rất độc đáo, nhưng lại rất quen thuộc với phong vị cổ truyền của quần chúng từ lâu đời. Trong quá trình cải biên, bổ sung, dĩ nhiên có một số chủ đề trong các điệu lý được sáng tạo, nâng cao. Trong số ấy, chúng ta có thể lấy bài Ru con làm ví dụ. Từ bài Lý giao duyên của vùng Trị Thiên, bài Lý giao duyên của Nam Bộ đã tiến lên trong một quá trình hoàn chỉnh hơn dưới một tựa đề mới là Ru con. Đó cũng là một quy luật, một đặc điểm cần lưu ý khi nghiên cứu vốn dân gian cổ truyền để chúng ta phân biệt được tính giao lưu và tính bổ sung đổi mới luôn luôn của nó.

Lời bài hát Ru con, dân ca Nam Bộ: Gió mùa thu… Mẹ ru con ngủ Năm canh chầy thức đủ vừa năm Hỡi chàng… chàng ơi! Hỡi người… người ơi! Em nhớ tới chàng… Em nhớ tới chàng! Hãy nín! nín đi con! Hãy ngủ! ngủ đi con! Con hời… con hỡi… Con hỡi… con hời… hỡi con!… Toàn bộ nội dung của bài hát được diễn tả trong sáu câu. Chỉ với 6 câu thôi, nhưng cũng đủ để vẽ nên một “bức tranh âm thanh” tuyệt diệu: …”Giữa một đêm thu tĩnh mịch… lắng nghe từng cơn gió lành lạnh nhẹ lướt ngoài khung cửa… người mẹ trẻ ấy… vừa ru con, vừa nghĩ đến người thương… vừa nghĩ đến người thương, vừa ru con!…”.

Âm điệu đơn giản, lời lẽ ngắn gọn, cô đọng đến mức không thể nào thêm được vào đấy một nốt hay một chữ nào nữa cả… Sự kết hợp như hình với bóng của âm điệu và lời ca đã thúc đẩy thêm nhanh chóng sự gần gũi giữa hình tượng nghệ thuật và quần chúng. Có những lúc, chúng ta như nghe được cả những nức nở, nghẹn ngào… đang trào lên từng đợt, từng đợt như: Hãy nín! nín đi con Hãy ngủ! ngủ đi con! Con hời.. con hỡi Toàn bộ bài hát được kết thúc bằng một sự đóng lại thư thả trên đường nét đi xuống của giai điệu chậm rãi… nhỏ dần… và chấm dứt… nhưng chúng ta như vẫn còn thấy đọng lại đâu đây hình ảnh người thiếu phụ đêm thu… ru con ngủ…, hình ảnh của một sự đợi chờ… của một lòng sắt son chung thủy!

Chất liệu dân ca Nam Bộ đã được nhiều nhạc sĩ quen biết vận dụng vào những ca khúc hiện đại, và có nhiều ca khúc thành công. Bằng những phong cách riêng biệt, bút pháp độc đáo của mình, các nhạc sĩ kể trên đã góp công một cách đáng kể vào quá trình kế thừa, tiếp tục phát huy và nâng cao hơn nữa chất liệu quý báu cổ truyền của dân ca Nam Bộ đã được nhân dân từ thế hệ này sang thế hệ khác gìn giữ và nuôi dưỡng… Dân ca là một mảnh đất trù phú, một kho tàng âm điệu vô tận, nơi tập trung của tất cả những nhân tố thể hiện trực tiếp nhất, sinh động nhất tính cách dân tộc của một địa phương hay một dân tộc nào đó.

Và nền âm nhạc chuyên nghiệp với tất cả những hình thức phong phú muôn màu muôn vẻ của nó cũng đều bắt nguồn từ di sản dân tộc, từ vốn cổ truyền của thế hệ trước để lại. Vì thế, tìm hiểu được kho tàng quý báu ấy đã là một chuyện không dễ, nhưng cái khó hơn hết, cái quyết định hơn hết là cần phải biết gạn đục, khơi trong, phải biết chọn lọc, lấy ra cái gì “tinh” nhất để phục vụ tốt cho cái hiện tại. Đó là vấn đề rất thiết yếu mà các nhạc sĩ nghiên cứu, sáng tác, biểu diễn, huấn luyện, không riêng cho một địa phương nào, đều nhận thấy trách nhiệm của mình trước nhân dân trong việc xây dựng một nền văn học nghệ thuật tiên tiến có tính chất dân tộc và tính nhân dân sâu sắc.

Nghệ Thuật Chèo

Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Việt Nam. Chèo phát sinh và phát triển ở đồng bằng Bắc Bộ. Loại hình sân khấu này phát triển cao, giàu tính dân tộc. Nếu sân khấu truyền thống Trung Quốc có đại diện tiêu biểu là Kinh kịch của Bắc Kinh và sân khấu Nhật Bản là kịch nô thì đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền thống Việt Nam là chèo.

 

[b]Lịch sử[/b] Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo, người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh vào thế kỷ 10, sau phát triển rộng ra đồng bằng Bắc Bộ. Địa bàn phố biến từ Nghệ – Tĩnh trở ra. Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt.

Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Từ thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, họ đã biết biểu diễn các vở chèo đầu tiên trên sân đình. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo.

Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ 10. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn. Sự phát triển của chèo có một mốc quan trọng là thời điểm một binh sỹ quân đội Mông Cổ đã bị bắt ở Việt nam vào thế kỷ 14. Binh sỹ này vốn là một diễn viên nên đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam.

Trước kia chèo chỉ có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh hưởng của nghệ thuật do người lính bị bắt mang tới, chèo có thêm phần hát. Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Do không được triều đình ủng hộ, chèo trở về với những người hâm mộ ban đầu là nông dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm. Tới thế kỷ 18, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19.

Những vở nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn này. Đến thế kỷ 19, chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai. [b]Các đặc trưng của chèo[/b] Nội dung Không giống tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý, chèo miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn.

Khát vọng sống thanh bình giữa một xã hội phong kiến đầy bất công. nhiều vở chèo còn thể hiện cuộc sống vất vả của người phụ nữ sẵn sàng hy sinh bản thân vì người khác. Nội dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ tích, truyện Nôm; được nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc.

Trong chèo, cái thiện luôn thắng cái ác, các sỹ tử tốt bụng, hiền lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì tiết nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng. Các tích trò chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm; ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân gian. Lối chèo thường diễn những việc vui cười, những thói xấu của người đời như các vở: Thầy mù, Hương câm, Đồ điếc, Quan Âm Thị Kính. Ngoài ra chèo còn thể hiện tính nhân đạo, như trong vở Trương Viên. Tính chất Chèo luôn gắn với chất “trữ tình”, thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, tình thương. Nhân vật trong chèo Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập khuôn.

Tính cách của các nhân vật trong chèo thường không thay đổi với chính vai diễn đó. Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất cứ vở nào, nên hầu như không có tên riêng. Có thể gọi họ là thầy đồ, phú ông, thừa tướng, thư sinh, hề v.v…Tuy nhiên, qua thời gian, một số nhân vật như Thiệt Thê, Thị Kính, Thị Mầu, Súy Vân đã thoát khỏi tính ước lệ đó và trở thành một nhân vật có cá tính riêng. Diễn viên đóng chèo nói chung là những người không chuyên, hợp nhau trong những tổ chức văn nghệ dân gian gọi là phường chèo hay phường trò…”Hề” là một vai diễn thường có trong các vở diễn chèo.

Anh hề được phép chế nhạo thoải mái cũng như những anh hề trong cung điện của vua chúa Châu Âu. Các cảnh diễn có vai hề là nơi để cho người dân đả kích những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến hay kể cả vua quan, những người có quyền, có của trong làng xã. Có hai loại hề chính bao gồm :hề áo dài và hề áo ngắn Kỹ thuật kịch Đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng, và có thể được biểu diễn ngẫu hứng.

Sân khấu chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó. Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự, phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ và cách điệu. Ngôn ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố, hoặc những câu ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ. Chèo không có cấu trúc cố định năm hồi một kịch như trong sân khấu Châu Âu mà các nghệ sỹ tham gia diễn chèo thường ứng diễn.

Do vậy, vở kịch kéo dài hay cắt ngắn tuỳ thuộc vào cảm hứng của người nghệ sỹ hay đòi hỏi của khán giả. Không giống các vở opera buộc các nghệ sỹ phải thuộc lòng từng lời và hát theo nhạc trưởng chỉ huy, nghệ sỹ chèo được phép tự do bẻ làn, nắn điệu để thể hiện cảm xúc của nhân vật. Số làn điệu chèo theo ước tính có khoảng trên 200. Nhạc cụ Chèo sử dụng tối thiểu là hai loại nhạc cụ dây là đàn nguyệt và đàn nhị đồng thời thêm cả sáo nữa. Ngoài ra, các nhạc công còn sử dụng thêm trống và chũm chọe. Bộ gõ nếu đầu đủ thì có trống cái, trống con, trống cơm, thanh la, mõ. Trống con dùng để giữ nhịp cho hát, cho múa và đệm cho câu hát.

Có câu nói ” phi trống bất thành chèo” chỉ vị trí quan trọng của chiếc trống trong đêm diễn chèo. Trong chèo hiện đại có sử dụng thêm các nhạc cụ khác để làm phong phú thêm phần đệm như đàn thập lục, đàn tam thập lục, đàn nguyệt, tiêu v.v… [b]Phân loại chèo[/b] Chèo sân đình Chèo sân đình là loại hình chèo cổ của những phường chèo xưa, thường được biểu diễn ở các sân đình, sân chùa, sân nhà các gia đình quyền quý. Sân khấu chèo sân đình thường chỉ là một chiếc chiếu trải ngoài sân, đằng sau treo chiếc màn nhỏ, diễn viên và nhạc công ngồi hai bên mép chiếu tạo dàn đế. Chèo diễn theo lối ước lệ, cảnh trí chỉ được thể hiện theo ngôn ngữ, động tác cách điệu của diễn viên. Đạo cụ của người diễn hay sử dụng là chiếc quạt.

Chèo cải lương Chèo cải lương là một dạng chèo cách tân do Nguyễn Đình Nghi khởi xướng và theo đuổi để thực hiện từ đầu những năm 1920 đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, theo xu hướng phê phán tính ước lệ của chèo cổ. Chèo cải lương được soạn thành màn, lớp, bỏ múa và động tác cách điệu trong diễn xuất, xử lý những mô hình làn điệu chèo cổ, đưa nguyên những bài dân ca có sẵn vào bổ sung cho hát chèo. Bộ “Tám trận cười” của Nguyễn Đình Nghi gồm những vở nổi tiếng. Chèo chái hê Chèo chái hê là loại hình dân ca hát vào rằm tháng bảy hàng năm, hoặc trong đám tang, đám giỗ của người có tuổi thọ, có nguồn gốc từ việc kết nghĩa giữa 2 làng Vân Tương (Bắc Ninh) và Tam Sơn (Đông Anh, Hà Nội), gồm có các phần: 1. Giáo roi, 2. Nhị thập tứ hiếu, 3. Múa hát chèo thuyền cạn, và 4. Múa hát kể thập ân. Kết thúc chương trình hát chèo chái hê thường là hát quan họ.

Những người gửi “hồn” vào Hát Then

Hát Then là loại hình nghệ thuật văn hoá dân gian luôn có sức sống khá mạnh mẽ trong đời sống cộng đồng các dân tộc Tày, Nùng, Thái… Ngày ngày đi lên nương làm rẫy, đêm đêm lại quay quần bên bếp lửa cùng nhau hát lên những bài Then cổ như Cốc tính, Sự tích mác ngỏa, then kì yên giải hạn, cáp tơ hồng…

 

Hát Then là loại hình nghệ thuật văn hoá dân gian luôn có sức sống khá mạnh mẽ trong đời sống cộng đồng các dân tộc Tày, Nùng, Thái… Ngày ngày đi lên nương làm rẫy, đêm đêm lại quay quần bên bếp lửa cùng nhau hát lên những bài Then cổ như Cốc tính, Sự tích mác ngỏa, then kì yên giải hạn, cáp tơ hồng…

Trải qua thời gian, điệu hát Then đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu là linh hồn trong đời sống văn hóa của bà con nơi đây. Nhưng để điệu hát Then phát triển đến ngày hôm nay, một phần lớn nhờ công của những con người đã gìn giữ, thổi hồn vào điệu hát Then độc đáo này.

Hát Then, hát bằng cả tấm lòng

Từ khi được thưởng thức điệu hát Then trong một đêm biểu diễn hát Then tại Hà Nội tôi đã mê say đắm điệu hát độc đáo này. Mặc dù không lớn lên trên quê hương hát Then nhưng những bài hát Then của đồng báo các dân tộc vùng cao như ngấm vào máu khiến tôi nuôi hy vọng sẽ có một ngày được lên “vương quốc” của điệu hát nổi tiếng này để có thể nghe tiếng hát ngọt ngào từ những nghệ nhân nơi đây. May thay, nhân Liên hoan đàn Tính – hát Then lần thứ 3 được tổ chức tại tỉnh Bắc Cạn, tôi có dịp được tìm về cái nôi của làn điệu hát Then, khao khát đi tìm những nghệ nhân sống chết với nghệ thuật hát Then, đi tìm một kho tàng di sản quý và những “báu vật sống”.

Nói đến nghệ nhân hát Then, nhiều người chỉ cho chúng tôi đến gặp nghệ nhân Nông Trọng Quyết. Tiếp chuyện với chúng tôi anh Quyết rất phấn khởi. Sinh ra trong một gia đình không có truyền thống hát Then tại huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn nhưng con đường đến với hát Then, đàn Tính của anh Nông Trọng Quyết như một thứ duyên thầm. “Từ nhỏ khi nghe hát Then tôi đã rất ấn tượng và quyết phải học cho bằng được, hát Then gắn liền với cuộc đời tôi từ đó”. Anh Quyết cho biết “Theo quan niệm dân gian, Then có nghĩa là Thiên, Thiên tức là “trời”, được coi là điệu hát của thần tiên truyền lại. Chính vì thế, trong đời sống của người Tày cổ, nó được dùng trong những sự kiện trọng đại hay lễ cầu an, cầu mùa, gọi hồn…Đồng bào Tày quan niệm, những điệu then giúp gửi lời cầu khấn đến nhà trời”.

 

Anh còn kể cho chúng tôi một truyền thuyết đã được lưu truyền từ đời này sang đời khác gắn liền với môn nghệ thuật văn hóa dân gian đặc sắc này “Truyền thuyết xưa kể rằng: Cây đàn Tính có 12 dây, mỗi khi tiếng đàn Tính cất lên, cỏ cây muông thú, vạn vật trên thế gian đều bị mê hoặc. Đến cả thần tiên trên trời cũng bị mê tiếng đàn mà trở nên lười nhác, bê trễ công việc. Thấy sự nguy hiểm  của cây đàn, Ngọc Hoàng bèn sai bèn sai tước đi 10 dây, chỉ để lại 2 dây như bây giờ. Nhưng không vì thế mà đàn mất đi sức hút với con người”. “Hát Then không có đàn Tính cũng chẳng khác nào bữa cơm thiếu muối, và hát Then không có đàn Tính, điệu Then của người Tày không thể bay cao, vang xa”, anh cho biết.

Từ tình yêu với nghệ thuật hát Then, bao năm nay anh miệt mài tìm kiếm những điệu Then cổ để gửi đến những người mê hát. Nhiều lời Then cổ tưởng như đã mất được anh tìm lại, trở thành “di sản” trong kho tàng văn hoá dân tộc Tày. Không chỉ dừng lại ở ở việc sưu tầm, biên soạn, anh còn sáng tác, đặt lời cho những làn điệu Then ca ngợi tình yêu lao động, lứa đôi và tình yêu quê hương đất nước. Những điệu Then sinh động do anh sáng tác, đặt lời đã khơi dậy tình yêu, sự đam mê ở nhiều thanh niên dân tộc.  Trong quá trình hoạt động nghệ thuật, anh đã giành được nhiều giải thưởng tại các cuộc liên hoan hát then như: Huy chương vàng các tiết mục tấu sáo Mông và hát Then “Người chiến sĩ biên cương”, năm 1986 tại Hội diễn lực lượng vũ trang Quân khu I, Huy chương vàng tiết mục “Đêm trăng bản Mông” tại Ngày hội văn hoá các dân tộc tỉnh Thái Nguyên và gần đây đạt Huy chương vàng giọng hát dân ca dân tộc tại Liên hoan tiếng hát phát thanh truyền hình Việt Nam và là tác giả đoạt giải A đặt lời hay nhất.

9 đời dành cho Then trong một gia đình

 

Bản Tinh bé nhỏ nằm nép mình trên sườn núi, mây trắng giăng giăng bay lượn. Ở đó lúc nào cũng ngân lên tiếng hát ngọt ngào của nghệ nhân Nguyễn Văn Quyền. Khi nói về hát Then, đôi mắt ông sáng lên lạ lùng. Ông cho biết, từ bé, niềm đam mê then dường như đã ngấm vào máu, vào tâm hồn. “Trong Then có nhiều loại gồm Then cầu phúc, cầu tài, lộc, Then kỳ yên giải hạn, Then buồn, vui, nhưng tất cả đều mang một âm hưởng dịu dàng, ấm cúng chất chứa bao tâm sự về cuộc sống của con người.

Dòng Then của gia đình ông được thừa nhận là một loại hình nghệ thuật tín ngưỡng cổ, thể hiển dưới ngôn ngữ hán nôm. Dòng Then cổ này hình thành trong một gia đình có dòng dõi là người hát then, nếu trong họ có người qua đời thì phải có người nối dõi” – Ông cho biết. Ông không nhớ điệu hát Then trong gia đình ông có từ khi nào, chỉ nhớ đến đời ông đã là đời thứ 9, không chỉ vậy con cháu ông đều thuộc lầu làu từng tích Then, từng làn điệu múa Then.
Biết tôi là người yêu Then, ông không ngần ngại biểu diễn một trích đoạn trong Lẩu then Phò mã. Ở cái tuổi 83 nhưng những làn điệu Then của ông vẫn say đắm  lắm, ngọt ngào lắm và làm ngất ngây những người mê điệu Then cổ.

Báu vật điệu hát Then

Tại liên hoan nghệ thuật hát Then, đàn Tính lần thứ III, chúng tôi rất ấn tượng khi nghe tác phẩm then “Cốc Tính” do nghệ nhân Lưu Đình Bạo (Xã Dương Sơn – Thị xã Bắc Kạn biểu diễn. “Cốc Tính” có nghĩa là “sự tích về cây đàn Tính” giải thích cho mọi người hiểu rằng  tại sao cây đàn Tính từ 12 dây nay chỉ còn 3 dây. Tâm sự với chúng tôi ông Bạo cho biết, ông rất tự hào khi được đại diện cho tỉnh Bắc Cạn biểu diễn điệu hát Then tại liên hoan”. Nói về hát Then, ông cho biết “Hát Then có nhiều bài bản, làn điệu. Người Tày, người Nùng không kể tuổi tác, giới tính, những người mê tín cũng như không mê tín rất thích nghe hát Then. Một vài tộc khác như người Mông, Việt ở trong vùng cũng tiếp nhận thể loại hát này trong đời sống tinh thần của mình. Lời hát theo hình thức diễn xướng tổng hợp ca nhạc. Đàn Tính, múa, diễn với nhiều tình huống khác nhau. Đảm nhiệm chức năng của một diễn viên tổng hợp. Họ vừa hát, tự đệm, vừa múa và diễn để thể hiện nội dung câu hát, đôi khi còn biểu diễn cả những trò nhai chén, dựng trứng…”
Trong nghệ thuật hát Then ở Bắc Cạn, ông Lưu Đình Bạo một nghệ nhân cao tuổi, người đang giữa một kho tàng Then cổ, sản phẩm vô giá đó hơn lúc nào hết cần phải được lưu giữa, bảo tồn và phát huy. Nói về việc lưu truyền loại hình Then bản địa này ông Bạo hiện đã truyền lại cho 2 người con trai trong gia đình những bài Then cổ truyền thống và đặc sắc nhất nhưng bên cạnh lòng tự hào vì có 8 đời theo nghề hát. Hầu hết những bài Then phổ biến mà ông vẫn thường sử dụng chính là sản phẩm mà được truyền lại từ thế hệ đi trước, điều đó chính là sự ban phước, để đời, lòng tự tôn của một dân tộc, chúng được nâng niu như một bảo bối mà ở đó chỉ có dòng họ Lưu mới biết. Sau nhiều năm cống hiến và đóng góp cho thành tựu văn hoá của tỉnh, ông Bạo được công nhận là nghệ nhân. Hai lần tham gia Liên hoan hát Then, đàn Tính toàn quốc tổ chức tại Quảng Ninh và Cao Bằng ông Bạo đều nhận giải thưởng với các tác phẩm  “Vọng én”, và “Con trẻ đầy tháng”.

Hát then là di sản văn hóa – Tại sao không ?

Hát Then vốn sản phẩm sáng tạo của rất nhiều thế hệ đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Thái. Trải qua thời gian, những sản phẩm văn hóa này đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của đồng báo các dân tộc miền núi phía Bắc.  Hát Then luôn có sức sống mãnh liệt trong đời sống nhân dân. Là niềm tự hào đối với người dân tộc Tày, Nùng, Thái. Hát Then là nghệ thuật có sức lan toả mạnh mẽ. Hiện nay, một số đồng bào người Tày, Nùng, Thái ở khu vực phía Bắc, chuyển đến sinh sống ở những vùng quê mới ở các tỉnh phía cực Nam của Tổ quốc đã mang theo nghệ thuật truyền thống này và ở đó, hát Then – đàn Tính đã có sức sống của nó.

Trên thực tế, nếu chúng ta không tranh thủ khai thác để các nghệ nhân truyền dạy cho con cháu thì giá trị đặc sắc của nghệ thuật này sẽ bị mai một. Con đường giúp cho hát Then, đàn Tính luôn tồn tại và có sức sống mãnh liệt bởi hiện nay ở nhiều nơi, người dân vẫn phát huy nghệ thuật này không chỉ trên sân khấu mà còn diễn trong ngày lễ tết, tổ chức cầu an, cầu may, chúc thọ…Qua tìm hiểu chúng tôi được biết, để khắc phục và phát huy những thế mạnh của những nghệ nhân cao tuổi, Sở VH – TT và DL Bắc Kạn cũng đã tổ chức mời các nghệ nhân hướng dẫn, truyền dạy loại hình nghệ thuật này cho thế hệ trẻ. Đồng thời, tỉnh còn gắn hát Then – đàn Tính với làm du lịch, vừa góp phần nâng cao đời sống tinh thần, giúp đồng bào có công ăn việc làm cải thiện cuộc sống, vừa tăng thêm phần hấp dẫn đối với du khách khi đến với Bắc Kạn.

Một thông tin đáng mừng đối với những nghệ nhân hát then nói riêng và đông đảo người mê làn điệu then nói riêng đó là Bộ VHTT&DL đã có đề xuất ý kiến sẽ xây dựng hồ sơ đề nghị công nhận hát Then – đàn Tính là Di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại. Vấn đề là xây dựng vào thời điểm nào, chứ hát Then – đàn Tính hoàn toàn xứng đáng được vinh danh