Vai trò của âm nhạc dân gian trong một số tác phẩm đương đại

Theo giảng viên âm nhạc Trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai Nguyễn Mạnh Hiền, trong một số sân chơi âm nhạc lớn như: Bài hát Việt, Sao Mai Điểm hẹn, Vietnam Idol… công chúng yêu âm nhạc bắt đầu được làm quen với một thể loại âm nhạc hoàn toàn mới lạ, đó là dòng âm nhạc dân gian đương đại. Đây là những tác phẩm có sử dụng nhiều hoặc ít những thang âm, màu sắc đặc trưng của dân ca các dân tộc, vùng, miền… nhưng vẫn dễ dàng nhận thấy hơi thở, kỹ thuật của âm nhạc hiện đại.

Nếu chúng ta cắt bỏ hết tất cả phần lời ca của một ca khúc, chỉ lắng nghe giai điệu, mà trong đó toát lên được những đặc trưng âm nhạc của một dân tộc, vùng miền nào đó như sự sắp xếp quãng nhạc, thang âm, sự mô phỏng hay phát triển âm hình tiết tấu… được hiện đại hóa về hòa thanh, tiết tấu… thì có nghĩa là chúng ta đang nghe một ca khúc đương đại mang âm hưởng dân ca.

Thực tế cho thấy, đối với việc có sử dụng chất liệu âm nhạc dân gian Tây Nguyên trong sáng tác ca khúc, đến nay đã có rất nhiều ca khúc Việt mang âm hưởng của dân ca Tây Nguyên và đã khẳng định được vị trí của mình qua bao thế hệ công chúng yêu nhạc. Đó là: Em là hoa Pơlang (Đức Minh); Tình ca Tây Nguyên (Hoàng Vân); Bóng cây Kơnia (Phan Huỳnh Điểu); Chuyện tình thảo nguyên (Trần Tiến); Sông Đakrong mùa xuân về (Tố Hải)…. Trong đó điển hình là nhạc sĩ Nguyễn Cường với hàng loạt các ca khúc như “H’Zen lên rẫy”, “Em hát thương ai”, “Còn thương nhau thì về Buôn Ma Thuột”, “Thênh thênh ook ơi”; “Xôn xao cao nguyên Đak Lak”… Và, theo anh Nguyễn Mạnh Hiền, để có những tác phẩm hay, ngoài những hiểu biết sẵn có về văn hóa của các dân tộc Tây Nguyên thì những chuyến thâm nhập thực tế về buôn làng sẽ là nguồn cảm hứng vô tận để các nhạc sĩ sáng tác được những ca khúc đương đại mang đậm “hồn Tây Nguyên”.

Với mong muốn đưa dân ca Jrai, Bahnar vào chương trình giảng dạy của Trường Trung cấp Văn hóa-Nghệ thuật Gia Lai, nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Ánh-Phó Hiệu trưởng nhà trường nhấn mạnh: Những bài dân ca mang đậm bản sắc dân tộc là những bài học rất bổ ích cho việc đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp, nó khơi dậy cho học sinh những cảm xúc chân thực với cái đẹp, cái thiện. Ngay từ những bài học căn bản đầu tiên của chương trình đào tạo trung cấp chuyên nghiệp ngành âm nhạc, chúng ta cũng có thể lồng ghép ngay những làn điệu dân ca của các dân tộc bản địa. Thông qua các làn điệu dân ca gần gũi của dân tộc mình, học sinh có thể tiếp thu những kiến thức, khái niệm âm nhạc một cách cụ thể, tích lũy những ấn tượng, cảm xúc chân thật về tác phẩm âm nhạc.

Là người duy nhất có 2 tham luận trình bày tại hội thảo, nhạc sĩ Lê Xuân Hoan-Chủ tịch Hội Văn học-Nghệ thuật Gia Lai đề cập một cách sâu sắc, toàn diện đến những ca khúc mang âm hưởng và phong cách Tây Nguyên và đặc biệt quan tâm đến đặc điểm của âm nhạc dân gian Bahnar và âm hưởng Bahnar trong một số tác phẩm đương đại. Ông Hoan cho rằng, tuy có muộn hơn so với các dân tộc thiểu số ở miền Bắc nước ta, nhưng từ lâu âm hưởng, phong cách của âm nhạc dân gian Bahnar đã được một số nhạc sĩ ở nước ta tiếp thu và vận dụng vào trong các sáng tác của mình, bước đầu tạo ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn yêu nhạc trong cả nước, nhất là đồng bào dân tộc Bahnar và Tây Nguyên; có thể kể đến những tên tuổi lớn như nhạc sĩ Y Dơn, nhạc sĩ Nhật Lai.

Đối với Gia Lai, đội ngũ nghiên cứu, sáng tác và biểu diễn âm nhạc chuyên nghiệp tuy còn quá mỏng, nhưng được thừa hưởng kinh nghiệm của những người đi trước, đồng thời được hấp thụ vốn âm nhạc dân gian, truyền thống của người Bahnar ngay trên mảnh đất ngàn đời của họ, những người hoạt động âm nhạc Gia Lai cũng đã sáng tạo được nhiều tác phẩm mang âm hưởng, phong cách âm nhạc dân gian Bahnar đáng được trân trọng. Tác phẩm của họ không những đạt giải cao trong các kỳ hội thi, hội diễn nghệ thuật chuyên và không chuyên nghiệp mà còn được quần chúng trong và ngoài tỉnh biết đến.

Tiêu biểu là các tác phẩm: Độc tấu đàn goong Chuyện kể của già làng của Nghệ sĩ Ưu tú Thảo Giang, Mong anh về, Tiếng hát đêm nhà rông của nhạc sĩ Ngọc Tường, Mặt trời trắng, Cao nguyên xanh của Ngọc Minh, Cao nguyên xanh của nhạc sĩ Kpă Ylăng, Tiếng khóc của rừng lời thơ Kpă Ylăng, nhạc Măng Ngọc, đặc biệt là nhiều tác phẩm nhạc múa của các nhạc sĩ: Lê Xuân Hoan, Nguyễn Hậu, Khắc Phú và gần đây là ca khúc Tiếng đàn goong của già làng của nhạc sĩ Trương Đức Hà…

Những vị thế của nhạc dân tộc trong dòng chảy âm nhạc đương đại

Trong dòng chảy tiến lên không ngừng của đời sống xã hội, âm nhạc đương đại càng ngày càng phát triển mạnh mẽ, song song với điều này âm nhạc truyền thống dần bị lu mờ, các nghệ nhân của âm nhạc dân tộc cũng đang phải gồng mình chống đỡ với cuộc đua theo thị hiếu âm nhạc của khán giả.

Sự “ghẻ lạnh” của khán giả trẻ với âm nhạc truyền thống

Hơn 4000 năm văn hiến dựng nước và giữ nước, nền văn hóa Việt Nam dần được hình thành và phát triển với nhiều loại hình nghệ thuật phong phú và độc đáo. Trong đó tâm hồn người Việt cổ được dìu dắt và xây dựng với những thể loại âm nhạc như chèo, tuồng, ca trù, hát xoan, quan họ, hát sli, hát lượn … ở miền Bắc. Những người con miền Trung lại da diết với những điệu hò, ví, dặm, nhã nhạc cung đình Huế… Người dân Nam Bộ chắc chắn không xa lạ gì với cải lương, tân cổ….

Trong số đó, Nhã nhạc Cung đình Huế, Quan họ, Ca Trù, hát xoan, Đờn ca tài tử, Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh được Tổ chức UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của Thế giới, nhưng dường như những loại hình nghệ thuật cổ này rất ít nhận được sự chú ý, nhất là giới trẻ.

Điều này thể hiện qua các chương trình ca nhạc, các ca sĩ sẽ ưu tiên chọn nhạc thị trường, nhạc nước ngoài để biểu diễn. Những chương trình này thay vì chú trọng vào vấn đề chất giọng của ca sĩ thì trang phục và vũ đạo sẽ được đầu tư trau chuốt hơn. Thần tượng âm nhạc của giới trẻ hiện nay đa phần là các ca sĩ Hàn Quốc, các ca sĩ trẻ thường hát các ca khúc thị trường.

Những ca khúc viết về quê hương đất nước, những thể loại âm nhạc cổ chỉ còn xuất hiện trong các chương trình nghệ thuật, hay các liên hoan văn nghệ chuyên biệt. Sự hẩm hiu của loại hình âm nhạc truyền thống còn được thể hiện qua việc báo chí “ghẻ lạnh” khi những tin bài không còn nói nhiều đến các chương trình này nữa.

Những vị thế của nhạc dân tộc trong dòng chảy âm nhạc đương đại
Những vị thế của nhạc dân tộc trong dòng chảy âm nhạc đương đại

Sự thay đổi cần thiết nào cho âm nhạc dân tộc?

Trước thực trạng âm nhạc dân tộc đang bị lu  mờ như vừa nêu, trong các cuộc Hội thảo của Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam đã đưa ra nhiều ý kiến mang tính xây dựng, nhưng thực sự cũng chưa khả thi với vấn đề này.

Xưa kia, khi thị trường âm nhạc chưa có sự rộng mở, du nhập nhiều yếu tố văn hóa nước ngoài, thì một lẽ tất nhiên, nhạc truyền thống như một dòng suối mát, ấp ôm nuôi dưỡng những tâm hồn trẻ. Nhưng với sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay, cùng hệ thống chương trình giáo dục dành phần nhiều cho âm nhạc đương đại thì đương nhiên vốn âm nhạc dân tộc của giới trẻ chỉ còn là những kiến thức chắp vá.

Để hiểu rõ điều này chúng ta có thể nhìn một lượt các giáo trình sư phạm từ cấp tiểu học trở lên, thời lượng dạy học cho thể loại âm nhạc dân gian không nhiều, chỉ giới hạn trong một vài bài dân ca ít ỏi. Truyền thông cũng không có xu hướng chú ý vào nhạc truyền thống, vậy thì làm sao giới trẻ có thể hiểu và yêu âm nhạc truyền thống.

Hiện nay, âm nhạc cổ truyền chỉ còn xuất hiện ở môi trường đào tạo sinh viên nhạc đặc thù, với sự chuyển mình chậm trễ, cùng những giá trị nguyên bản của nhạc dân tộc đang dần được thay thế bằng các nhạc cụ dân tộc cải tiến, những tác phẩm dân gian đa âm cũng đang làm mất dần giá trị truyền thống gốc của các thể loại nhạc dân gian.

Chúng ta có thể học hỏi như ở một số nước Châu Á khác, họ có một nền âm nhạc truyền thống đặc sắc, được nhiều bạn bè quốc tế biết đến, và đương nhiên nội lực trẻ của quốc gia họ về âm nhạc truyền thống cũng rất mạnh. Ngay ở sân bay của các nước Ấn Độ, Trung Quốc… trên kệ sách ngoài phòng chờ lúc nào cũng có những tài liệu viết về nghệ thuật dân gian nước họ, những tờ rơi giới thiệu về các chương trình âm nhạc truyền thống sẽ diễn ra trong thời gian sắp tới ở đất nước họ.

Trong điều kiện hội nhập và mở cửa, với sự ảnh hưởng của nhiều luồng văn hóa khác nhau, để bảo tồn và phát huy giá trị của nghệ thuật âm nhạc dân tộc, chúng ta cần phải có những động thái cụ thể, xây dựng kế hoạch từ bộ môn âm nhạc trong nhà trường, cho đến phương thức truyền thông cho những loại hình nghệ thuật này, để mai này, những nét văn hóa đẹp nghìn đời của cha ông không bị mai một và lay lắt như hiện giờ.

Vai trò của dân ca, nhạc cổ truyền dân tộc trong ca khúc đương đại

Đối với mỗi quốc gia, dân tộc, khi mà nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và khoa học kỹ thuật đang chứa đựng trong nó những giá trị mang tính toàn cầu, thì văn hóa nói chung và âm nhạc cổ truyền dân tộc nói riêng là khẳng định sự tồn tại một cách ý nghĩa nhất của quốc gia, dân tộc đó.

Những vấn đề chung

Là một thành tố quan trọng cấu thành văn hóa, âm nhạc cổ truyền dân tộc với những giá trị tiềm ẩn mang tính bản sắc văn hóa thật sự là “chứng minh thư” của một dân tộc trong xu thế hội nhập mang tính toàn cầu. Âm nhạc cổ truyền dân tộc ra đời và tồn tại như một thành tố quan trọng, thiết thân và không thể thiếu được của sinh hoạt văn hóa dân gian, gắn bó với mỗi con người từ thuở lọt lòng trong lời ru của mẹ (Hò ơi… Gió mùa thu mẹ ru con ngủ/ Năm canh chày, thức đủ vừa năm(1)… hay… Mẹ ru cái lẽ ở đời/ Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn/… Ta đi trọn kiếp con người/ Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru(2)… cho đến khi nhắm mắt xuôi tay trong tiếng kèn tiễn biệt về nơi vĩnh hằng, đó là cơ sở quan trọng cho sự phát triển của nền âm nhạc mới Việt Nam.
Trong mỗi thời đại, các nhạc sỹ đều tìm đến giá trị truyền thống và kết hợp với tinh hoa nhân loại để xây dựng cho mình một ngôn ngữ âm nhạc, một phong cách âm nhạc mang hơi thở dân tộc. Ngày nay, khi âm nhạc giải trí tiếp thu mạnh mẽ những yếu tố như tiết tấu, hòa thanh, nguồn âm của điện tử thì âm nhạc dân tộc cổ truyền đứng trước sức ép vô cùng lớn, nên không có điều kiện thể hiện hết những giá trị dân tộc và hiện đại trong thể loại của mình, đồng thời cũng mất đi một số lượng đáng kể khán thính giả ham mê thể loại này.
Tuy nhiên, khi sáng tác một tác phẩm về một dân tộc nào đó thì cần phải nghiên cứu thật kỹ từ văn hóa, tín ngưỡng cho đến âm hưởng, giai điệu của dân tộc đó. Có nhiều nhạc sỹ đã có những tác phẩm về dân tộc rất hay. Bên cạnh đó, cũng có nhiều người sáng tác ca khúc về một dân tộc nào đó nhưng lại vay mượn âm hưởng của một nơi khác. Điều đó sẽ làm mất đi sự tinh túy của hồn dân tộc trong mỗi sáng tác, bởi “Nhân dân là người tạo nên âm nhạc, chúng ta chỉ ghi lại và chuyển biên chúng”(3).
Vai trò của dân ca, nhạc cổ truyền dân tộc trong ca khúc đương đại
Vai trò của dân ca, nhạc cổ truyền dân tộc trong ca khúc đương đại

Tính dân tộc và tính hiện đại trong ca khúc đương đại

Trong lĩnh vực âm nhạc, mối giao thoa Đông – Tây như con sóng ngầm đã diễn ra từ lâu, nhưng phải đến những năm gần đây thì biểu hiện của nó ngày càng rõ nét trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Không phải hoàn toàn âm nhạc truyền thống phương Đông bị lấn át, hay bị mất dần bản chất như nhiều người vẫn nghĩ, mà thực tế nó diễn ra theo chiều ngược lại. Âm nhạc truyền thống bản địa với những đặc trưng của nó về chất liệu âm nhạc, hòa thanh, đã đi sâu vào đời sống của nhiều nhạc sỹ nổi tiếng trên thế giới, là nguồn cảm hứng cho họ sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ.
Tính dân tộc và tính hiện đại trong âm nhạc cổ truyền là chủ đề rất rộng, liên quan đến mọi lĩnh vực, từ sáng tác, biểu diễn, đào tạo đến lý luận phê bình. Đây là một cặp phạm trù luôn tồn tại trong âm nhạc của mọi dân tộc, mọi thời đại. Việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại đã hình thành ra các trường phái âm nhạc. Các nhạc sỹ sáng tác là những người đi tiên phong trong việc khai thác, phát triển nền âm nhạc của dân tộc mình và tiếp thu tinh hoa âm nhạc thế giới để xây dựng phong cách riêng cho mình, đồng thời góp phần làm phong phú cho trường phái âm nhạc dân tộc mà họ được sinh ra…
Về sáng tạo, trong mỗi thời đại các nhạc sỹ đều tìm đến giá trị truyền thống và kết hợp với tinh hoa nhân loại để xây dựng cho mình một ngôn ngữ âm nhạc, một phong cách âm nhạc mang hơi thở dân tộc. Dân tộc và hiện đại có mối quan hệ biện chứng với nhau, dân tộc là nền tảng, hiện đại là xu thế tất yếu. Vấn đề phụ thuộc vào vai trò cá nhân của người sáng tạo mà trong âm nhạc là các nhạc sỹ sáng tác. Tính dân tộc là một khái niệm động, nó không như một cổ vật khi khai quật được thì vĩnh viễn nằm trong bảo tàng. Tính dân tộc luôn chuyển động theo thời gian và được phát triển qua từng giai đoạn trong con đường đi lên, bản thân tính dân tộc cũng bị chi phối bởi yếu tố hiện đại.
Ngày nay mối quan hệ tương tác giữa tính dân tộc và tính hiện đại càng có sự cọ sát, va đập mạnh hơn lúc nào hết. Trong các thể loại âm nhạc, từ âm nhạc cổ truyền dân tộc đến âm nhạc giao hưởng thính phòng và ca nhạc nhẹ giải trí, hai yếu tố dân tộc và hiện đại đều có điều kiện phát huy hết công suất và khoe sự nổi trội của mình. Đó là chưa kể đến ảnh hưởng vô cùng lớn của nền âm nhạc quốc tế làm dung hòa và pha loãng tính dân tộc trong các tác phẩm âm nhạc, đặc biệt trong lĩnh vực ca khúc giải trí.
Các tác phẩm mang âm hưởng dân tộc – Cách thức này được sử dụng nhiều nhất, các nhạc sỹ đã khai thác chất liệu về hòa thanh, điệu thức, tính năng nhạc cụ, các thủ pháp sáng tác mới để thể hiện nội dung nghệ thuật của tác phẩm. Nhìn chung, các nhạc sỹ đã đạt được những thành công nhất định khi vận dụng nhiều thủ pháp âm nhạc có từ trước, và sáng tạo thêm nhiều thủ pháp mới để diễn đạt những nội dung nghệ thuật của riêng mình.

Vai trò ca khúc dân gian đương đại

Âm nhạc luôn có một dòng chảy văn hóa dân gian của dân tộc trong các ca khúc. Từ khi âm nhạc mới ra đời đến nay, ở bất cứ giai đoạn nào, các nhạc sỹ luôn có ý thức khai thác những yếu tố dân gian để đưa vào ca khúc. Tuy nhiên, cũng có sự khác nhau, đó là, người thì tiếp cận dưới góc độ ngôn ngữ, âm hưởng, chất liệu âm nhạc, nhưng có người lại ở góc độ cốt chuyện… Mục đích cuối cùng là đem cho người nghe một tác phẩm âm nhạc hoàn chỉnh, mang tính thẩm mỹ dân tộc.
Như vậy, ca khúc dân gian đương đại, thực chất là những bài hát mà giai điệu, nội dung hay lời ca đều có tiếp thu một số yếu tố của âm nhạc dân gian. Không thể phủ nhận giá trị nghệ thuật của những bài hát này trong bối cảnh âm nhạc hiện nay, còn gọi chúng là gì, sao cho hợp lý, có lẽ đó là công việc của các nhà nghiên cứu, lý luận phê bình âm nhạc nước nhà?
Cùng với sự phát triển của nhiều dòng âm nhạc khác, âm nhạc cổ truyền dân tộc thời gian qua cũng đã chứng minh được những giá trị mang tính bản sắc của mình. Những làn điệu dân ca, dân vũ đã không chỉ vang lên nơi thôn quê, giữa các phòng hòa nhạc, mà hơn thế, đã đến và làm say lòng bè bạn năm châu bốn bể. Là người Việt Nam, dù ở nơi đâu chúng ta cũng luôn nhớ và tự hào về di sản văn hóa âm nhạc truyền thống dân tộc mà cha ông đã để lại.
Tóm lại, từ các vấn đề đã nêu ở trên, hy vọng trong thời gian tới, giới những người làm công tác âm nhạc sẽ thường xuyên có những cuộc gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm bảo tồn những di sản văn hóa âm nhạc trong bối cảnh toàn cầu hóa, làm sao để di sản văn hóa âm nhạc cổ truyền dân tộc không chỉ chứng tỏ bản sắc văn hóa của dân tộc mình, mà còn góp phần làm giàu, làm phong phú, đa dạng thêm kho tàng văn hóa âm nhạc Việt Nam trên thế giới.

Vì sao nói dân ca Việt Nam là một kho tàng phong phú?

Trong kho tàng âm nhạc truyền thống của các DTTS Việt Nam, âm nhạc của mỗi dân tộc lại mang một sắc thái riêng, gắn liền với đời sống tinh thần của mỗi dân tộc. Cùng với dòng chảy của thời gian, với sự sáng tạo của các nghệ sĩ, âm nhạc dân tộc cũng được làm mới để phù hợp với xu hướng hiện đại. Không chỉ bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống, âm nhạc của các DTTS còn góp phần làm giàu thêm cho nền âm nhạc Việt Nam.

Là một quốc gia đa dân tộc, Việt Nam có sự đa dạng về văn hóa, phong tục, ngôn ngữ, tiếng nói… trong đó, âm nhạc mang sắc thái riêng, bao gồm kho tàng dân ca, nhạc cụ phong phú, đặc sắc gắn liền với đời sống tinh thần của mỗi dân tộc.

Nếu đồng bào dân tộc Thái có điệu khắp – một làn điệu dân ca đặc trưng, giàu bản sắc đã trở thành nét văn hóa không thể thiếu trong các lễ hội, đám cưới, lễ mừng nhà mới, mừng cơm mới, mừng năm mới… thì người Chăm lại tự hào với làn điệu H’ri gắn liền những câu hát ru sâu lắng, da diết…

Âm nhạc của mỗi dân tộc có những nét đặc trưng, đa dạng là thế, nhưng khi sống trong nền âm nhạc đương đại, chất liệu âm nhạc của mỗi dân tộc lại được chuyển hóa, được làm mới để phù hợp xu hướng và thị hiếu của người nghe.

Là người con dân tộc Tày của mảnh đất xứ Tuyên, từ khi còn nhỏ nhạc sĩ Tân Điều đã được đắm mình trong những làn điệu sli, lượn, then… mượt mà, tha thiết của đồng bào Tày, Nùng. Để rồi những làn điệu ấy luôn ẩn hiện trong từng sáng tác của ông: “Đường về Tân Trào”, “Áo chàm đi hội”, “Vấn vương câu hát ới la”, “Mùa bông”, “Lời suối hát”, “Đánh yến”, “Con gái bản tôi”…

Trong ca khúc “Con gái bản tôi”, nhạc sĩ Tân Điều đã vận dụng một cách linh hoạt và nhuần nhuyễn các làn điệu dân ca, làm cho giai điệu, ca từ trở nên mượt mà: “Con gái bản tôi ai ai cũng khéo/Nắng gắt trên lưng chưa rời rẫy nương/Ríu ra ríu rít bên giàn khung cửi/Dệt nên cuộc sống với bao tiếng cười”. Ca khúc là bức tranh tái hiện không gian văn hóa miền núi khi tác giả khéo léo thêm ngữ điệu cảm thán của người Tày như “a lúi” sau mỗi câu hát.

Nếu nói đến kế thừa chất liệu âm nhạc dân tộc vào các sáng tác mới mà không nhắc tới dân ca Mường có lẽ là một thiếu sót. Đặc trưng của dân ca Mường thiên về tự sự, lấy ngôn ngữ văn học dân gian làm chủ đạo. Nhiều luyến láy là một trong những nét riêng của dân ca Mường. Sự luyến láy tạo ra âm điệu riêng để cùng chung một làn điệu mà mỗi vùng, thậm chí mỗi Mường lại có sự độc đáo khác nhau.

Vì sao nói dân ca Việt Nam là một kho tàng phong phú?
Vì sao nói dân ca Việt Nam là một kho tàng phong phú?

Âm nhạc DTTS làm giàu kho tàng âm nhạc Việt Nam

Nhạc sĩ Huy Tâm, Ủy viên Ban Chấp hành Chi hội Nhạc sĩ tỉnh Hòa Bình cho biết: Mỗi thế hệ nhạc sĩ đều có những cách sử dụng chất liệu dân ca Mường rất riêng. Ví dụ, thế hệ các nhạc sĩ những năm 1960 cho đến khoảng trước năm 2010 thường sử dụng chất liệu dân ca Mường vào các sáng tác bằng cách giữ nguyên bản bài dân ca. Tuy nhiên, những năm gần đây, các nhạc sĩ mới họ không “bằng lòng” với kiểu sáng tác cổ điển mà đã mạnh dạn đưa hơi thở của cuộc sống hiện đại, đó là nhạc nhẹ vào các tác phẩm có sử dụng chất liệu dân ca Mường. Hướng khai thác này đã cho thấy hiệu ứng tốt ở một số ca khúc.

Tiêu biểu như ca khúc “Hòa Bình tay trong tay” của nhạc sĩ Trần Ngọc Dũng. Hay nhạc sĩ Nguyễn Cường trong chuyến đi thực tế, sáng tác tại Hòa Bình với ca khúc “Đi gặp sông Đà” vừa mang âm hưởng dân ca Mường, vừa sử dụng chất liệu dân ca được khán giả đánh giá cao.

Theo PGS. TS Nguyễn Bình Định, nguyên Viện trưởng Viện Âm nhạc Việt Nam: Âm nhạc của các DTTS có vai trò quan trọng và là yếu tố quyết định tạo ra sự đa sắc, đa hương cho vườn hoa nghệ thuật âm nhạc truyền thống. Các DTTS có những tư duy về vấn đề giai điệu, điệu thức, điệu quãng, nhạc cụ và cách thể hiện riêng. Điều đó góp phần tạo nên bản sắc riêng từng dân tộc, tạo nên sự phong phú đa dạng của âm nhạc dân tộc Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Âm nhạc của các DTTS có vai trò quan trọng và là yếu tố quyết định tạo ra sự đa sắc, đa hương cho vườn hoa nghệ thuật âm nhạc truyền thống. Điều đó góp phần tạo nên bản sắc riêng từng dân tộc, tạo nên sự phong phú đa dạng của âm nhạc dân tộc Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”.

Nhạc dân ca Việt Nam – Ca trù

Ca Trù là một lối hát cổ truyền của người Việt. Tên gọi Ca Trù cũng đã được tài liệu cổ ghi nhận. Trên các tài liệu Hán Nôm chữ “Trù” trong “Ca Trù” đều dùng chữ “Trù”. Theo đó “Trù” là thẻ làm bằng tre, trên thẻ có ghi số tiền (hoặc quy định ngầm với nhau là mỗi thẻ tương ứng với một khoản tiền), dùng để thưởng cho đào và kép ngay trong khi biểu diễn thay cho việc thưởng bằng tiền mặt; cuối chầu hát sẽ căn cứ vào số thẻ mà tính tiền trả cho đào và kép hoặc giáo phường. Người quyết định việc thưởng này chính là vị quan viên (khách nghe hát), sử dụng Trống Chầu (gọi là Cầm Chầu). Đó là nguồn gốc của tên gọi Ca Trù; cũng là thuật ngữ sử dụng trong chuyên khảo này. Tuy nhiên Ca Trù, với ý nghĩa là một lối hát có dùng thẻ để thưởng như đã nói ở trên thì chỉ có ở hát Ca Trù ở đình đền, tức là Hát Thờ.

Từ trái: trống chầu, đàn đáy, phách
Từ trái: trống chầu, đàn đáy, phách

Ca Trù sử dụng ba nhạc khí đặc biệt (không chỉ về cấu tạo mà còn về cách thức diễn tấu) là đàn đáy, phách và trống chầu. Về mặt văn học Ca Trù làm nảy sinh một thể loại văn học độc đáo là Hát Nói. Đây là một bộ môn nghệ thuật ca nhạc “thính phòng” được hình thành trên nền tảng âm nhạc dân gian Bắc Bộ, người nghe cũng tham gia vào cuộc hát bằng việc Cầm Chầu. Ca Trù còn có những cái tên khác như: Hát Cửa Đình, Hát Nhà Trò (hát ở đình, đền, miếu), Hát Cửa Quyền (trong cung phủ), Hát Nhà Tơ (hát ở dinh quan, tư gia các gia đình quyền quý), Hát Ả Đào, Hát Cô Đầu (hát ở các ca quán)…

Ca Trù gắn liền với nghi thức tế thần ở các đình làng, ngoài những điệu hát còn có các nghi lễ với vũ điệu và cả các cách thi tuyển tại đình làng trong dân gian nên các lề lối biểu diễn Ca Trù được gọi là thể cách. Thể cách Ca Trù vừa bao gồm làn điệu, vừa bao gồm các hình thức diễn xướng khác như múa, biểu diễn kỹ thuật nghề (đàn, trống). Trong 49 tài liệu Hán Nôm có liên quan đến Ca Trù được khảo sát trong có 8 bản mang tên Ca Trù Thể Cách. Các học giả Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề trong sách Việt Nam Ca Trù biên khảo cũng gọi là Các thể Ca Trù.

Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định Ca Trù là một bộ môn nghệ thuât lâu đời, độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt trong kho tàng ca nhạc của người Việt Nam. Ca Trù gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn chương, âm nhạc, tư tưởng, triết lý sống của người Việt. Do vậy nghiên cứu Ca Trù cũng là góp phần vào việc nghiên cứu các giá trị truyền thống trong văn hóa Việt Nam.

Catru12

Ca Trù là một DI SẢN VĂN HÓA ĐẶC SẮC của Việt Nam. Đặc sắc ở sự phong phú làn điệu, thể cách, cả không gian, thời gian biểu diễn và phương thức thưởng thức; đặc sắc còn vì từ cội nguồn nó gắn bó mật thiết với lễ nghi, phong tục, với sinh hoạt cộng đồng. Ca Trù làm người ta nhớ tới những tao nhân mặc khách với lối chơi ngông, chơi sang, rất tinh tế và giàu cá tính sáng tạo của những danh nhân như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Tản Đà… Và cùng với đó là mối quan hệ giữa văn nhân (nhà thơ, nhà báo, họa sĩ) với Ả đào – mối quan hệ quan trọng nhất của lối thưởng thức Ca Trù. Bởi quá trình tham gia sinh hoạt Ca Trù là quá trình văn nhân sáng tạo, thể nghiệm và thưởng thức các tác phẩm của mình.

Sau năm 1945, trong một thời gian khá dài sinh hoạt Ca Trù vốn tao nhã và sang trọng trước đây đã bị hiểu lầm và đánh đồng với các sinh hoạt thiếu lành mạnh ở một số ca quán đô thị khiến cho xã hội chối bỏ và quyết loại sinh hoạt Ca Trù ra khỏi đời sống văn hóa. Ca Trù đã không được nuôi dưỡng và phát triển một cách tự nhiên, không được tôn vinh đúng mức, phải chịu tồn tại thiếu sinh khí và tàn lụi. Nhiều nghệ nhân, nghệ sĩ đã phải cố quên đi nghiệp đàn hát và giấu đi lai lịch của mình.

Khoảng chục năm trở lại đây dư luận xã hội và các cơ quan thông tấn báo chí đã từng lên tiếng về nguy cơ thất truyền của Ca Trù. Nguy cơ mai một dần và vĩnh viễn mất đi Ca Trù là một nguy cơ có thực, đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn Ca Trù như một vốn quý văn hóa của dân tộc. Do vậy việc cung cấp những hiểu biết sâu hơn và có căn cứ về một số vấn đề của Ca Trù, không những góp phần đáp ứng yêu cầu cấp thiết ấy mà còn góp phần vào việc phục hồi và chấn hưng nghệ thuật và sinh hoạt Ca Trù.

Chức năng của nhạc dân ca và danh sách các ca sĩ hát nhạc dân ca hay

Chức năng của nhạc dân ca

Chức năng giáo dục

Dân ca giáo dục tình yêu quê hương đất nước, trân trọng giá trị nghệ thuật của con người ở mỗi vùng quê. Dân ca giáo dục tình cảm và thẩm mĩ cho trẻ. Đó là những điều hay lẽ phải, cách ứng xử giao tiếp với ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, bạn bè và những người xung quanh. Ngoài ra còn là nền tảng phát triển đạo đức, những bài hát có ca từ dễ thuộc, giai điệu mềm mại, trữ tình có ảnh hưởng nhất định tới trẻ tạo những cảm xúc tương ứng. Những bài dân ca có giai điệu nhẹ nhàng bay bổng cũng tạo cho trẻ biết cách diễn đạt ngôn ngữ hơn còn những bài có tiết tấu sinh động, rộn ràng, lời ca rắn rỏi, mạnh mẽ sẽ tạo cho trẻ phát huy những tình cảm thẩm mĩ và lành mạnh.

Chức năng lao động

Dân ca là một thể loại ca hát dân gian, chủ yếu bắt nguồn từ môi trường nông ngư nghiệp ở các vùng nông thôn. Cũng có thể bắt nguồn từ một cá nhân có năng khiếu dệt nhạc vào một bài ca dao (thơ dân gian). Từ môi trường nông ngư nghiệp đó, dân ca có nhiều chức năng trong các hoạt động  của cuộc sống. Chức năng hỗ trợ các thao tác lao động trên cạn như: ru em, xay lúa, giã gạo, tát nước, kéo gỗ…, trên sông nước thì có hò chèo thuyền, kéo lưới… làm bớt đi sự căng thẳng mệt mỏi trong quá trình lao động, đồng thời khiến cho tinh thần của người lao động hưng phấn hơn, giúp cho quá trình lao động được năng xuất hơn, đạt kết quả cao hơn.

Chức năng sinh hoạt

Được sản sinh trong môi trường diễn xướng, qua những buổi lao động sinh hoạt cộng đồng trên đồng ruộng, bãi lúa, ven sông, những buổi hội làng, tính ngẫu hứng đầy thẩm mỹ của dân ca thực sự chỉ được thể hiện trọn vẹn khi đưa vào môi trường diễn xướng dân ca. Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, ngoài lao động người dân còn tổ chức hội hè đình đám trong, những lúc nông nhàn. Có thể thấy rõ chức năng sinh hoạt trong các thể loại hát Ví, hát Quan họ, Trống quân, Giặm, hát Lý, hát Đúm…

Chức năng nghi lễ

Dân ca nghi lễ thường gắn liền với lễ hội. Để phục vụ cho nghi thức lễ hội, nhiều địa phương đã sáng tạo nên những điệu hát múa cho phù hợp như hát Chầu văn, hát Cửa đình (cửa đền) đây là hình thức hát ca trù phục vụ cho nghi lễ thờ phụng thánh thần ở các đình hay đền làng sở tại. Có thể nói hát cửa đình là hình thái được ưa chuộng nhất trong xã hội thời phong kiến do các tập tục tế lễ thánh thần là một nhu cầu quan trọng không thể thiếu trong đời sống của các cộng đồng cư dân nông nghiệp. Trải qua thời gian thứ âm nhạc trong nghi thức, nghi lễ đó đã dần nâng tầm nghệ thuật

Chức năng nghệ thuật

Trên thực tế các chức năng đều chứa đựng yếu tố nghệ thuật. Tuy nhiên, trải qua thời gian với sự sàng lọc tinh hoa của dân tộc, một số thể loại dân ca đã phát triển vượt ra khỏi khuôn khổ đất nước Việt Nam ta như Hò Huế, Ca trù, Quan họ Bắc Ninh, thể loại sân khấu Tuồng, Chèo, cải lương để đến với thế giới và được bạn bè quốc tế yêu thích. Ngoài ra cũng đã có những điệu dân ca đã được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại như: dân ca Ví giặm của tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Dân ca Quan họ của Bắc Ninh.

Danh sách các ca sĩ hát nhạc dân ca hay

Ca sĩ Bùi Thủy

Tuổi thơ cơ cực ở vùng quê lúa Thái Bình đã giúp nữ ca sĩ trẻ Bùi Thúy thấu hiểu hơn ai hết những mất mát, khó khăn mà người dân miền Trung phải gánh chịu khi cơn bão đi qua.

Đối với những ai yêu thích dòng nhạc quê hương, có lẽ Bùi Thúy không phải là cái tên xa lạ. Cô gái quê Thái Bình gây ấn tượng từ cuộc thi Sao mai 2015 tiếp tục tạo sức hút với màn trình diễn xuất sắc trong “Tuyệt đỉnh song ca” năm 2016.

Dù không giành được danh hiệu quán quân nhưng Bùi Thúy đã trở thành cái tên được hàng triệu khán giả yêu mến.

Ca sĩ nhạc dân ca Bùi Thủy
Ca sĩ nhạc dân ca Bùi Thủy

Ca sĩ Sao Mai Hương Ly

Sở hữu chất giọng nữ cao (soprano) đẹp cùng kỹ thuật thanh nhạc chắc chắn, Sao mai Hương Ly đã gây được ấn tượng mạnh với Hội đồng giám khảo và bạn bè, đồng nghiệp tại kỳ thi tốt nghiệp chuyên ngành Thanh nhạc hệ Đại học mới đây và đạt Thủ khoa với điểm 10 tuyệt đối.Cô sinh ra và lớn lên ở Hà Nam, là một trong những cái nôi của hát chèo, gia đình cũng có truyền thống hát chèo, hát văn nên Hương Ly đã thấm nhuần những giai điệu ngọt ngào từ khi còn nhỏ.

Ca sĩ nhạc dân ca Mai Hương Ly
Ca sĩ nhạc dân ca Mai Hương Ly

Ca sĩ Ngọc Kiều Oanh

Trong giới nghệ sĩ tài tử trên đất Bình Dương, cái tên Ngọc Kiều Oanh được biết đến như một trong những nghệ sĩ trẻ sở hữu một giọng hát hay. Đi lên từ một giọng ca nghiệp dư, giờ đây Kiều Oanh đã có trong tay khá nhiều những giải thưởng, huy chương. Vừa qua, chị còn là một trong 12 thí sinh vào tới vòng bán kết khu vực của Chuông vàng vọng cổ do HTV tổ chức.

Sinh ra và lớn lên tại mảnh đất Tương Bình Hiệp, TP.TDM, từ nhỏ cô bé Kiều Oanh đã thích nghe và mê hát.

Năm 2014, Kiều Oanh được kết nạp vào Hội Văn học nghệ thuật tỉnh. Đây cũng là năm Kiều Oanh gặt hái nhiều thành công trong nghề. Nghệ sĩ sinh năm 1980 này đã mang về giải tư Bông lúa vàng do Đài Tiếng nói Nhân dân TP.HCM tổ chức. Thành công tiếp nối thành công, hồi tháng 5-2015 này, Oanh ẵm về Huy chương vàng Đờn ca tài tử miền Đông Nam bộ, do Bạc Liêu đăng cai tổ chức.

Ca sĩ Phi Nhung

Phi Nhung tên đầy đủ là Phạm Phi Nhung (sinh ngày 10 tháng 4 năm 1972) cô nổi tiếng với dòng nhạc trữ tình, dân ca.

Năm 1998, Phi Nhung là nữ ca sĩ ra nhiều album nhất và doanh số bán chạy thuộc hàng kỷ lục nên người trong giới và khán giả đặt cho nghệ danh ”Nữ hoàng băng đĩa”.

Từ năm 2005, Phi Nhung chính thức được phép trở về biểu diễn tại Việt Nam và trở thành ca sĩ độc quyền của trung tâm băng nhạc Rạng Đông. Ngoài ca hát, Phi Nhung còn tham gia nhiều lĩnh vực khác như diễn viên truyền hình, diễn viên điện ảnh, nghệ sĩ cải lương, nghệ sĩ kịch nói, nghệ sĩ hài, MC.

Ca sĩ nhạc dân ca Phi Nhung
Ca sĩ nhạc dân ca Phi Nhung

Ca sĩ Cẩm Ly

Cẩm Ly (sinh ngày 30 tháng 3 năm 1970) là một nữ ca sĩ Việt Nam thuộc dòng nhạc nhẹ, nhạc trữ tình, nhạc có âm hưởng dân ca và nhạc trẻ. Trước đây cô từng là học sinh của THPT Chuyên Lê Hồng Phong tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Từ nhỏ, ba chị em Cẩm Ly đã bộc lộ năng khiếu ca hát. Năm 1993, Cẩm Ly cùng Minh Tuyết đi hát và cùng ngày năm đó cô và em của mình đã đoạt giải nhất song ca do nhà hát Hòa Bình tổ chức.

Năm 2013, Cẩm Ly cùng Minh Tuyết tổ chức liveshow Tự tình quê hương 4 đánh dấu kỷ niệm 20 năm ca hát của hai chị em. Liveshow diễn ra trong hai đêm tại Nhà hát Hòa Bình, Tp. Hồ Chí Minh với sự ủng hộ của đông đảo khán giả.

Trong năm 2014, Cẩm Ly tham gia với vai trò là HLV của Giọng hát Việt nhí đưa Thiện Nhân trở thành Quán quân mùa thứ hai.

Ca sĩ nhạc dân ca Cẩm Ly
Ca sĩ nhạc dân ca Cẩm Ly

Ca sĩ Phương Mỹ Chi

Phương Mỹ Chi sinh ngày 13 tháng 01 năm 2003 là một ca sĩ chuyên hát thể loại nhạc dân ca Nam bộ Việt Nam. Mỹ Chi bắt đầu nổi danh từ khi tham gia và đạt giải á quân chương trình truyền hình thực tế Giọng hát Việt nhí mùa thứ nhất.

Ca sĩ Phương Mỹ Chi trong MV sân khấu do Thu Âm Việt sản xuất
Ca sĩ Phương Mỹ Chi trong MV sân khấu do Thu Âm Việt sản xuất

Ca sĩ Hồ Văn Cường

Hồ Văn Cường sinh ngày 16 tháng 3 năm 2003, quê tại quê Gò Công – Tiền Giang – Việt Nam, là một ca sĩ. Hồ Văn Cường tham gia cuộc thi Thần Tượng Âm Nhạc Nhí 2016 (Vietnam idol kid) và giành quán quân cuộc thi này với khả năng hát dòng nhạc dân ca truyền cảm và sâu lắng.

Ca sĩ Ngọc Trân

Tổng hợp các ca khúc hay nhất ca sĩ nhạc dân ca Ngọc Trân

Ca sĩ Ngọc Trân là một trong những ca sĩ rất thành công với dòng nhạc trữ tình quê hương. Với sự đam mê dòng nhạc này, cô đã thể hiện tốt những ca khúc về trữ tình quê hương và được đông đảo khán giả biết đến với hình ảnh này. Ngoài ra với khuôn mặt xinh xắn, duyên dáng và với giọng hát ngọt ngào sâu lắng cô càng khiến khán giả yêu thích bài hát hơn. Với sự kết hợp giữa một nhạc sĩ tài năng và cô ca sĩ ngọt ngào, có chung một niềm yêu thích nhạc trữ tình quê hương họ đã tạo ra một bài hát “Hát Về Phù Cát Quê Tôi” chắc chắn sẽ chạm đến trái tim của người nghe, người con xa quê và đặc biệt là những người con Miền Trung Phù Cát.

Dân ca Việt Nam: Âm nhạc tao nhã, nhiều giá trị cần gìn giữ lưu truyền

SƠ LƯỢC VỀ DÂN CA VIỆT NAM

Nguồn gốc:

Dân ca là những bài hát, khúc ca được sáng tác và lưu truyền trong dân gian mà không thuộc về riêng một tác giả nào. Đầu tiên bài hát có thể do một người nghĩ ra rồi truyền miệng qua nhiều người, từ đời này qua đời khác và được phổ biến ở từng vùng, từng dân tộc… Các bài dân ca được gọt giũa, sàng lọc qua nhiều năm tháng bền vững cùng với thời gian.

dân ca việt nam

Âm điệu, phong cách & bản sắc:

Dân ca của mỗi nước, mỗi dân tộc hay của mỗi vùng, mỗi miền đều có âm điệu, phong cách riêng biệt. Sự khác nhau này tùy thuộc vào môi trường sống, hoàn cảnh địa lý và đặc biệt là ngôn ngữ. (Ví dụ: dân ca các dân tộc Tây Nguyên khác với dân ca Nam Bộ…). Nhiều bài dân ca đã đạt tới trình độ nghệ thuật cao và có sức hấp dẫn, truyền cảm mạnh mẽ, được phổ biến sâu rộng.

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với nền văn hóa lâu đời, do đó dân ca Việt Nam thật phong phú. Đa dạng. Kho tàng dân ca Việt Nam bao gồm nhiều vùng miền, nhiều thể loại: Dân ca quan họ ở Bắc Ninh, hát Xoan ở Phú Thọ, hát Ví, hát Trống quân ở nhiều làng quê Bắc bộ, hát Dô ở Hà Tây, hát Ví dặm ở Nghệ An, Hà Tĩnh… ở Trung bộ có Hò Huế, Lý Huế, hát Sắc bùa… ở Nam bộ có các điệu Lý, điệu Hò, nói thơ… Dân ca của các dân tộc miền núi phía Bắc (đồng bào Thái, H’ Mông, Mường…), dân ca của các dân tộc Tây Nguyên (Gia-rai, Ê-đê, Ba-na, Xơ-đăng…) đều có bản sắc riêng.

Từ bao đời nay, dân ca gắn bó với đời sống văn hóa và tinh thần của cộng đồng các dân tộc trên khắp dải đất Việt Nam.

dân ca việt nam

Ngoài những làn điệu thuộc các loại dân ca khác nhau còn có những loại hát có nhạc đệm theo như Chầu Văn, ca trù, ca Huế, ca Quảng, nhạc tài tử miền Nam… và những hình thức ca kịch dân tộc độc đáo như Tuồng, Chèo, Cải lương…  Dân ca luôn được bổ sung và phát triển. Nhiều nhạc sĩ đã dùng chất liệu dân ca để sáng tác nên những bài hát và bản nhạc mới đậm đà màu sắc dân tộc, trở thành những tiêt mục biễu diễn rất hấp dẫn.

Học hát, nghe các làn điệu dân ca và tìm hiểu về dân ca Việt Nam, chúng ta càng thêm yêu mến và tự hào về nhân dân ta, đất nước ta. Dân ca là sản phẩm tinh thần quý giá của cha ông để lại, càng trân trọng, giữ gìn, học tập và tiếp tục phát triển vốn quý ấy.

dân ca việt nam

Phân loại:

Thường thì sự phân loại căn cứ vào nơi phát sinh ra những bài dân ca ấy dưới các dạng hò, vè, lý… đặc biệt là các bài dân ca Nam Bộ và dân ca quan họ Bắc Ninh.

 

Hát Quan họ (Miền Bắc)

 

Ca Huế (Miền Trung)

 

Cải Lương (Miền Nam)

 

  • Dân ca miền Bắc
    • Qua Cầu Gió Bay
    • Hoa Thơm Bướm Lượn
    • Cây Trúc Xinh
    • Bèo Dạt Mây Trôi
    • Giã Bạn
    • Người Ở Đừng Về
  • Dân ca miền Trung
    • Lý Thiên Thai
    • Hò Khoan Lệ Thủy
  • Dân ca Tây Nguyên & dân ca miền núi
    • Chặt Gỗ Đóng Thuyền
  • Dân ca Nam bộ
    • Ru Con
    • Lý Ngựa Ô
    • Lý Bằng Răng
    • Lý Chiều Chiều
  • Các thể loại dân ca khác
    • Bóng Em (dân ca Chàm)
    • Dân ca nước ngoài

Vì sao hát ả đào gọi là hát ca trù, hát nhà tơ, hát nhà trò?

1. Vì sao hát ả đào gọi là hát ca trù

Ở cửa đền ngày xưa có lệ hát thẻ, thẻ gọi là trù, làm bằng mảnh tre ghi chữ đánh dấu, dùng để thưởng ả đào thay cho tiền mặt.

Khi hát quan viên thj lễ chia ngồi hai bên, một bên đánh chiêng và một bên đánh trống. Chỗ nào ả đào hát hay, bên trống thưởng một tiếng chát ,bên chiêng đánh một tiếng chiêng rồi thưởng luôn cho một cái trù. Đến sáng đào kép cứ theo trù thưởng mà tính tiền, ví dụ được 50 trù, mà trị giá mỗi trù ấn địnhlà 2 tiền kẽm, thì làng phải trả 10 quan tiền. Vì thế hát ả đào gọi là hát ca trù nghĩa là hát thẻ…

2. Vì sao hát ả đào gọi là hát nhà tơ?

Ngày xưa dân chúng ít khi tìm ả đào về nhà chơi, chỉ các quan khi yến tiệc trong dinh hay trong ty (tơ) mới tìm ả đào (Dinh Tuần phủ gọi là Phiên ty, dinh Án sát gọi là Niết ty). Vì thế hát ả đào còn được gọi là hát nhà tơ, nghĩa là hát ở trong ty quan.

3. Vì sao hát ả đào gọi là hát hát nhà trò?

Khi ả đào hát ở cửa đền có bỏ bộ, miệng hát tay múa uốn éo lên xuống, làm bộ điệu người điên, ngưới say rượu, người đi săn,… Vì vừa hát vừa làm trò nên gọi là Hát nhà trò.

[Theo Việt Nam ca trù biên khảo]

10 bài hát chầu văn, hầu đồng hay nhất

Ảnh minh họa, nguồn: Internet.

Cung văn đóng vai trò quan trọng trong hầu đồng. Một vấn hầu đồng phục vụ tín ngưỡng thờ cúng đạo thánh Việt Nam được coi là thành công, có màu “nhang khói, thần thánh” khi và chỉ khi từ người hành lễ cho tới lễ nhạc chầu văn (cung văn) cùng những người phục vụ (đồng phò) có sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn. Dưới dây là sưu tầm những bài hát chầu văn, hầu đồng hay nhất.

1. Bản văn Sự tích Bát Tràng Bản Hương Thánh Mẫu

Vị thánh được dân gian đồng hóa với Mẫu Đệ Tứ – Chầu Đệ Tứ của tín ngưỡng tứ phủ.

Bát Tràng danh hương chốn quê nhà

Mỹ Tín Thiên Tiên vốn Hằng Nga

Giáng sinh vào Đồng Tâm Trần Thị

Gái Bát Tràng uyên nhàn thùy mị

Nét dịu dàng từ ý đoan trang

Mậu Thìn năm đó giáng phàm

Trần Đồng Tâm vốn là Vương Phụ

Trần Đông Cục đích thị Mẫu Vương

Đức Vương Phụ vốn là Thần dược

Được tặng phong chức Phủ Hiệu Sinh

Đức Vương Mẫu cũng dòng vinh hiển

Là con gái Vệ Thần Sách triều Lê

Khi giáng phàm Ngài là quyền quý

Dòng Trâm anh cái thế gần xa

Tiết trung, hiếu nghĩa, thật thà

Công dung ngôn hạnh lại là Phật tâm

Danh thơm nức tiếng xa gần

Nhà nhà đều muốn kết tình thông gia

Ngày Hai Tư Chầu bà hiển hóa

Ất Dậu Tháng Chín Chầu về cõi tiên

Bách Nhật nội ngày đêm biến hiện

Lúc dạo chơi Đồng Phú, Đồng Tài

Có khi lại lễ Chùa Kim Trúc

Lúc quay ra Đồng Mỹ, Đồng Tâm

Rồi Đồng Lộc, cây đa Bà Cận

Khi ngự thuyền Long Nhỡn dạo chơi

Khi dạo mát bến đò Ba Đậu

Trở ra về lễ Phật Bảo Minh

Có khi bái yết cửa Đình

Dâng hương bái đảo Thành Hoàng sáu ngôi

Khắp dân làng lấy làm linh hiển

Bèn rủ nhau cầu đảo dâng hương

Nhiệm màu thay tâm cầu sở đắc

Khắp xa gần kéo dến dâng hương

Truyền tai nhau hiển ứng thần linh

Dấu chân hạc còn lưu hương đỉnh

Đức Đồng Tâm chẳng nỡ xa con

Mang thân ngọc hóa thành tro cốt

Chia trăm phần theo gió tán đi

Giữ một phần táng nơi cổ tự

Chùa Tiêu Giao bên xã Đông Cao

Núi Thiên Thai mây bay gió cuốn

Cốt tới đâu tôn kính lập đền

Bảy hai làng Gia Bình Siêu Loại

Tỉnh Bắc Ninh các xã phụng thờ

Năm Khải Định Tứ Tuần Đại Khánh

Sách tặng phong ân thánh giáng trần

Vua ban sắc chỉ phong thần

Trang huy dực bảo trung hưng Thượng Đẳng

Chuẩn cho dân xã phụng thờ

Hưng công xây sửa linh từ khang trang

Làng Bát Tràng tháng Chín mở hội

Ngày Hai Tư đản hóa Mẫu Bản Hương

Lòng thành kính hương hoa tịnh thủy

Hóa phép màu lục trí thần thông

Tốc lai giáng hạ từ trung

Ngôi đền cổ kính bên sông Nhĩ Hà

Ngôi đền tối tú tối linh

Khuông phù đệ tử khang ninh thọ trường

2. Cậu Quận Sòng Sơn Văn

Bản văn này nói về Thánh Cậu ( được thờ ở Sòng Sơn ) Trong hệ thống Tứ phủ , được sử dụng khi hầu giá này.

Vầng đông mãn bóng dương vời vợi

Soi vườn hồng choi chói nhân gian

Vốn xưa chầu chực đền vàng

Vào ra cửa Mẫu sửa sang một Hoàng

Trên ngọc bộ chén vàng tay lỡ

Xuống trần gian vào cửa dân ngay

Điều lành ứng mộng khôn thay

Bào thai đủ tháng mười ngày sinh ra

Khác người ta long hành hối bộ

Ấn tam đình lồ lộ nở nang

Dung nghi tính hạnh phi thường

Ngọc lành vàng tốt yêu đương chẳng rời

Phút nghe thấy trên trời chiếu chỉ

Rước Hoàng về thượng đế tiên cung

Xe loan gió lọt bụi hồng

Cành huyên duy phút mộng xuân rầu rầu

Chốn hồng lâu trong lòng phỉ ngộ

Chạnh nghĩ là cậu ở xứ Thanh

Sòng Sơn thượng đẳng anh linh

Trời Nam tú khí địa danh đâu bằng

Duy nghìn thu tặng phong choi chói

Cửa linh từ nhang khói ngàn thu

Chầu rồi cậu lại ngao du

Đồi Ngang phố Cát kinh đô thị thành

Áo cánh xanh phất phơ lòng đỏ

Quần hoa hiên vòng cổ vòng tay

Khăn đào cậu đội xinh thay

Vai mang túi gấm chân giày rong chơi

Cậu Hoàng ba bảy tuổi xanh

Miệng cười hoa nở mọi hình mọi xinh

Chân đá cầu đồng trinh đánh đáo

Tay quạt tầu hảo tố báo tiền

Cậu Hoàng be bé hạt tiêu

Bé xinh bé đẹp vua yêu Mẫu dùng

Các chầu cô khăn hồng áo thắm

Bóng cậu Hoàng càng ngắm càng say

Dăm ba dắt díu dang tay

Nhác trông cậu quận thực thay hữu tình

Hát tiếng kinh líu lô vui vẻ

Cậu Quận Hoàng tươi đẹp thanh tân

Trẻ già nam nữ xa gần

Cậu Hoàng chơi đó mười phần ngồi xem

Hoặc ai phải sương thu nắng hạ

Cậu ban cho nước lã tàn nhang

Ra tay chuyển bệnh trần gian

Trừ tai tống ách bình an tức thời

Tấu văn mời cậu ban tài lộc

Cho trong nhà ngũ phúc lâm môn

Đền thờ chúa vị thánh tôn

Anh linh thiên cổ trường tồn muôn thu

Đệ tử tôi khói hương phụng sự

Dốc một lòng sớm tối dám sai

Thỉnh Cậu giá ngự đền đài

Phù hộ đệ tử đời đời bình an

3. Văn bài sai Mười hai cô

Bài sai thập nhị tiên nàng

Cô nào việc ấy sửa sang theo hầu

Cô cả pha nước trà tầu

Thế là vừa ý gật đầu ban khen

Cô đôi dâng bộ khay đèn

Xe ngà diện sứ móc tiêm bằng vàng

Cô bơ dâng hộp thuốc nam

Thế là vừa ý ông hoàng sơn lâm

Cô tư đốt đỉnh nhang trầm

Ngọn đèn khêu tỏ tay cầm móc tiêm

Cô năm dâng hộp bánh nguyên

Kẹo xìu thuốc lá cảnh tiên ai bì

Cô sáu tính nết nhu mì

Dâng con ngựa xám ông đi chấm đồng

Cô bảy nẩy khúc đàn thông

Ngày ngày hầu hạ vào ra sớm chiều

Cô tám dâng chiếc lược ngà

Đôi tay chải chuốt thật là khéo thay

Cô chín yểu điệu ai tầy

Tiên cô dâng 1 đôi giầy hầu ông

Cô 10 thắt dải lưng hồng

Canh ba giờ tí đèn lồng bước ra

Cô 11 quạt nước pha trà

ấm tiên bình ngọc tay ngà dâng lên

Cô 12 múa lượn xênh tiền

12 tố nữ hầu giá đôi bên rõ ràng

4. Cậu thả lưới

Ba quân nghe lệnh cậu truyền

Thuyền bè neo cọc các miền đông tây

Lưới thần la liệt bủa vây

Thuỷ binh cơ đội vào ngay kíp liền

Chân mây mặt nước vô biên

Lưới thần chăng khắp các miền hải đông

Tôm he cá mực tôm rồng

Đều sa vào lưới trùng trùng như muôn

5. Cậu bé Hoàng

Hát dọc:

Cậu Hoàng giục ngựa qua sông

Mồ hôi nhỏ giọt, thương đồng phải theo

Thương đồng mấy núi cũng trèo

Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua

Đường trường ngàn dặm suối khe

Sông sơn, phố cát lại về đền Dâu

Trần gian trẩy tội gần xa

Cậu Hoàng trẩy hội hoa xuân tưng bừng

Tấu cho phật thánh mười phương

Thanh đồng đệ tử tựa nương tuổi già

(Làm lễ xong ngự tọa)

6. Văn Cô Bé Hòa Bình

(Bản này được sử dụng hát trong giá hầu Chầu Thác Bờ )

Ai lên cảnh đẹp Hoà Bình

Thác Bờ phong cảnh hữu tình biết bao

Dải sông Đà rì rào sóng vỗ

Cảnh núi rừng cây phủ màu xanh

Anh linh cô bé Hoà Bình

Thác Bờ cô ngự một mình trông coi

Sử Lê triều sáng soi nữ kiệt

Giặc bạo tàn phải khiếp uy linh

Chiếc thoi vượt thác một mình

Mênh mông sóng vỗ ấm tình nước non

Trăng khuyết thì trăng lại tròn

Người Mường sống với nước non muôn đời

Cô cứu người bằng thoi Tam Bảo

Dắt dân bằng đuốc sáng thần tiên

Cô đi dáng điệu dịu hiền

Cong cong nét liễu cài trên sóng tuyền

Vẻ thanh tú hiện trên nền ngọc

Nét thu ba mái tóc vờn mây

Đoan trang vẻ mặt hây hây

Khăn xanh áo trắng vẻ đầy thần tiên

Mênh mông sóng nước hò khoan

Chơi vơi tượng đá hiện lên giữa dòng

Đêm thanh vắng thuyền rồng cô ngự

Lá cờ thần thêu chữ vàng tươi

Mênh mang một dải khoan bơi

Chở quân chính nghĩa thoát nơi hiểm nghèo

Nước Đại Việt Lê Triều khai mở

Phong cô là liệt nữ anh hùng

Có công được tặng chữ chung

Có cô bé Thác được phong thể vàng

Từng vượt núi băng ngàn mở lối

Giúp dân lành sớm tối nên công

Bao năm đục núi khơi dòng

Đem dòng nước ngọt mát từng đồi nương

7. Văn Cậu Quận Phủ Dầy

Bản văn này nói về Thánh Cậu ( được thờ Phủ Dầy ) trong hệ thống Tứ Phủ

Lòng tin tiến một cơi trầu

Dâng bản văn chầu thỉnh Cậu về đây

Cậu xưa vốn ở Phủ Dầy

Chầu chực đêm ngày hầu hạ vào ra

Cậu Hoàng mới độ lên ba

Hình dung sắc thái thật là xinh thay

Đầu đội nón chân đi giày

Áo xanh khăn đỏ vòng tay quạt tàu

Khi chầu thượng đế khấu đầu

Khi trở về chầu thánh mẫu thuỷ cung

Thấy ai thờ phụng có lòng

Cậu về giá ngự điện trung chơi bời

Cậu thời có sắc có tài

Khắp hết điện đài đâu chẳng ngự chơi

Ai thời sạch sẽ tốt tươi

Sửa sang lịch sự đến nơi tức thì

Cậu nay tính hạnh nhu mì

Hình dung nhan sắc mọi bề mọi hay

Lại xem phong cảnh mọi nơi

Đài kia giá nọ rong chơi phố phường

Miệng cười hoa nở phi phương

Khăn hồng cánh cánh rõ ràng thực xinh

Thấy đâu vui thú hữu tình

Cậu về giá ngự như hình thần tiên

Vốn xưa cậu ở giang biên

Con vua thuỷ tế giáng miền nhân gian

8. Văn Cô Cả

Bản văn này nói về cô Đệ Nhất trong hệ thống tứ phủ , được sử dụng hát hầu giá cô Đệ nhất khi lên đồng

Dưới Động Đình hoa rơi lai láng

Cửa rèm châu thấp thoáng bóng trăng

Đời Lê Thái Tổ trung hưng

Anh linh ra sức Liễu Thăng hàng đầu

Lệnh khoa màu theo quan sứ giả

Chọn ngày lành giáng hạ thần tôn

Ra vào ngọc điện kim môn

Danh thơm ngoài cõi tiếng đồn trong cung

Đức Mẫu Vương có lòng quảng đại

Phong cô làm công chúa thiên cung

Ngọt ngào nổi dấu thiên hương

Phấn son chải chuốt áo vàng trai lơ

Bậc thần nữ phong cô nhan sắc

Vẻ khuynh thành nhất mực trần gian

Hây hây má phấn tựa hương

Mặt hoa đầy đặn trán vuông cgữ điền

Vẻ thiên nhiên hình dung tầm thước

Gót hài hoa càng bước càng xinh

Đã nên quốc sắc khuynh thành

Mày ngang bán nguyệt rành rành tựa hoa

Áo mớ ba chân hài mỏ phượng

Lwợc đồi mồi nhẫn ngọc luồn tay

Gương soi phấn điểm nào tày

Cổ đeo chàng mạng đôi tai hoãn vàng

Nét dịu dang lại càng vinh hiển

Giá ngự đồng phán chuyện các nơi

Thông chi dưới bể trên trời

Lầu son phủ tía cô ngồi thảnh thơi

Lúc nhàn hạ lên chơi tỉnh Bắc

Kén được đồng nhan sắc nết na

Thiên triều bồng báo trải qua

Quỳnh Lôi thẳng tới Thổ Hà Vạn Vân

Trải phủ Thuận qua đền Dâu Khám

Tới đền Ghềnh xuống trạm Hoàng Mai

Có phen đi hán đi hài

Qua đền Cổ Vũ Hàng Gai Hàng Bè

Trở ra về Hàng Buồm Phố Khách

Gặp Minh hồng khúc khích cười reo

Rong chơi Cầu Gỗ Hàng Đào

Trở về Hàng Bạc lại vào Phúc Tân

Tháng hai hội đền Dầm đền Sở

Ninh xá từ Đại Lộ đức Ông

Nhởn nhơ đứng mũi thuyền rồng

Khuyên luyện thanh đồng chầu chực dâng hoa

Lại trở ra cô về đền Sét

Xuống Bạch Mai bái yết chùa Vua

Dạo chơi Trưng Trắc Hai bà

Đức Viên Hoà Mã ,lại ra Tây Hồ

Có phen dạo khắp thành đô

Qua phủ Tây Hồ về tới Chân Tiên

Mời Cô trắc giáng bản đền

Phù hộ đệ tử thiên niên thọ trường

9. Văn Cô Đôi Cam Đường

Bản 1:

Lòng thành thắp một tuần hương

Dâng văn sự tích Cam Đường tiên cô

Quê nhà ở đất xưa Đình Bảng

Dòng nối dòng buôn bán vải tơ

Cô quản gì nắng sớm chiều mưa

Cong cong đòn gánh sớm trưa cho đời

Nào tơ lụa vải sồi lĩnh tía

Đủ mặt hàng chẳng thiếu thức chi

Chiều chiều quảy gánh ra đi

Lung linh got ngọc quảy đi cho đời

Cô tới đâu hoa cười chim hót

Các bản làng nhẹ gót thênh thênh

Suối khe đồi núi gập ghềnh

Vải tơ đem đến ấm tình ngược xuôi

Dân đâu đấy nhớ người tiên nữ

Dáng thanh thanh mắt tựa sao sa

Thơm thơm tóc phượng dà dà

Hây hây má phấn da ngà lưng ong

Núm đồng tiền dáng trông ngọc thuyết

Nở nụ cười vẻ nguyệt in hoa

Khăn vuông đen thẫm đậm đà

Lưng đeo xà tích tai hoa bấm vàng

Áo đổi vai dịu dàng vạt thắt

Mối lưng bao nhiệm nhặt đường cong

Tư trời sánh với trăng trong

Công dung ngôn hạnh đức cùng thanh tao

Sở mãn hạn thiên tào bỗng gọi

Trở về trời để lại nhớ thương

Người tiên gửi đất Cam Đường

Dấu tiên để lại bốn phương phụng thờ

Thuở sinh thời vải tơ đem đến

Lúc về trời vẫn hiện đêm khuya

Canh ba quảy gánh đi về

Tay tiên hái quả trẩy huê cho đời

Sang canh tư dạo chơi các bản

Gọi chim rừng gợi sáng canh năm

Anh linh nức tiếng bốn phương

Có cô tiên nữ Cam Đường thiêng thay

Dân đâu đó đêm ngày nguỡng mộ

Đội ơn cô tế độ sinh nhân

Ban tài tiếp lộc xa gần

Kêu sao được vậy nhân dân ơn nhờ

Đoi đãy nải thủa xưa ghi lại

Cô Cam Đường tiếng mãi mai sau

Hôm nay dâng tiến văn chầu

Cung đàn tiếng hát đôi câu tâm thành

Cô về lai giáng điện đình

Xin cô bốn chữ khang ninh thọ trường

Bản 2

Gương tần tảo đời đời ghi nhớ

Chữ kiệm cần ví tựa vàng son

Trăm năm bia đá vẫn mòn

Cam Đường cổ tích miếu đường ngàn thu

Đường Quan Lộ ,chợ Dầu ,Đình Bảng

Có hai cô buôn bán tha hương

Đòn cong túi đẫy dịu dàng

Ngược xuôi thuận nẻo Cam Đường chợ xa

Hai túi đẫy lượt là nhiễu vải

Lụa tơ vàng sồi đũi hoa trơn

Hai vai nặng gánh càn khôn

Chàm xanh lĩnh tía nâu non vải sồng

Đường xa lắc mà lòng chẳng ngại

Giúp ngưòi đời có vải ấm thân

Niềm tin đồn đại xa gần

Cam Đường biên giới thổ dân nức lòng

Bỗng một buổi trời đông tuyết lạnh

Vai nặng nề quảy gánh non xa

Chiều hôm bóng đã xế tà

Núi non khuất khúc vào ra vắng người

Cô dừng bước bên đồi đỡ gánh

Biết đâu ngờ đã định mưu gian

Cường hung một lũ bạo tàn

Thẳng tay cướp của lại toan hại người

Âu cũng bởi số trời đã định

Nợ trần hoàn nhẹ gánh gian lao

Tinh linh trở lại thiên tào

Cam bề hoặc tử quyết liều hai thân

Ngàn cỏ hoa tần ngần rủ lá

Cảm thương người một dạ kiên trinh

Nỗi oan khuất thấu Thiên Đình

Mối xông cổ mộ rành rành bên non

Phép linh ứng hiện hồn đưa khách

Cứu cho người thoát ách cường hung

Độ người trên bộ dưói sông

Thuận buồm xuôi gió thong dong đi về

Khắp hương bản nhờ uy tế độ

Ai khẩn cầu phúc thọ tài danh

Cam Đường dựng miếu anh linh

Sở cầu như ý thời tình thế gian

Thưòng dạo cảnh Đông Cuông,Trái Hút

Đền Bảo Hà,Ngòi Hóp ,Lao Cai

Sông Thưong bẻ lái chèo bơi

Khi vào Rừng Cấm,khi chơi Làng Giàng

Khi chơi cảnh Hà Giang ,Bắc Mục

Thú lâm tùng rừng trúc rừng mai

Cam Đường quả ngọt hoa tươi

Lẵng hoa cô quảy trên vai nhịp nhàng

Thắt đai ngang xuyến vàng xà tích

Ống vôi trầu đỏ quạch thơm cay

Yếm đào dải lụa tung bay

Mặc áo đổi vạt chân giày quai ngang

Miếu đôi cô Cam Đường cổ tích

Hiếu anh linh hách trịch thế gian

Thỉnh cô trắc giáng đàn tràng

Khuông phù đệ tử an khang thọ trường

10. Văn Cậu Quận Đồi Ngang

Bản văn này nói về Thánh Cậu được thờ ở Phủ Đồi Ngang – Ninh Bình . Dược dùng khi hát hầu trong Hệ thống Tứ phủ

Trên trời nổi trận mưa sa

Hồng vân ngũ sắc hoá ra cậu Hoàng

Nguyên xưa cậu ngự Đồi Ngang

Có giấy Mẫu truyền cậu kíp ran gay

Tháng ba trảy hội phủ giày

Công Đồng, Phủ Bóng ra ngay Phủ Bà

Về đồng chit chiếc khăn hoa

Kì thi khoá hội cậu ra kinh kỳ

Vua yêu, Mẫu lại yêu vì

Nâng niu như ngọc lưu ly vàng mười

Ngọc lưu ly càng nhìn càng thắm

Bông hoa đào càng ngắm càng xinh

Cậu Hoàng ba bảy tuổi xanh

Anh tài nhất mực thông minh tuyệt vời

Trái đào tóc chấm ngang vai

Tay cầm quyển sổ bút ngọc cài tai đi chấm đồng

Tai nghe nhạc ngựa long nhong

Nhạc ngựa cậu Quận đèn chong cậu về

Con ngựa hồng khoan khoan chân bước

Giương cung thần bắn suốt mình chim

Một đàn chim nhạn bay lên

Tránh sao cho khỏi mũi tên cậu Hoàng

Cái cung bạc, mũi tên vàng

Giương cung cậu bắn rõ ràng mười mươi

Cậu ăn chơi nghiêng nước đổ trời

Có khi thanh lịch tốt tươi anh hào

Đền đây khuya sớm ra vào

Đôi tay nâng bức màn đào quỳ tâu

Ngày ngày đôi buổi theo hầu

Vua cha cũng quý Chúa Chầu cũng thương

Tấu cho phật thánh mười phương

Thanh đồng đệ tử tựa nương trăm tuổi già

Tục truyền tháng tám hội Cha

Tháng ba hội Mẫu gần xa nức lòng

Cậu Đồi giục ngựa qua sông

Hèo hoa cậu vác thương đồng phải theo

Thương đồng tứ núi cũng leo

Thất sông cũng lội cửu đèo cũng qua

Chân tâm niệm chữ Di Đà

Vào chùa Non Nước hái hoa đem về

Băng rừng vạn dặm suối khe

Khi chơi Yên Tử lúc về Quỳnh Lâm

Thương người thành kính nhất tâm

Cứu cho thoát ách trầm luân mọi loài

Cậu nay đích thực người trời

Tỏ lòng trung hiếu thương người trần ai

Gia ân tiếp lộc ban tài

Tạ xong ba lễ cậu ngồi nghe văn

Văn cậu bắn cung

Anh hùng có một không hai

Côn quyền kiếm kích đủ tài kinh luân

Đường đường rạng vẻ đai cân

Cung đeo kiếm giắt tiến quân lên ngàn

Ba quân nghe lệnh truyền ban

Bốn phương tám hướng quanh ngàn bủa vây

Cung vàng cầm chắc trong tay

Tên thần lắp sẵn tên bay nhẹ nhàng

Chim ưng đà điểu đại bàng

Cùng loài hổ bảo sói lang hại người

B.T

Vở chèo “Đồng tiền Vạn Lịch”: Kịch bản sáng tạo từ tích truyện cũ

Mới đây, Đoàn chèo Hải Phòng đã có buổi diễn báo cáo Hội đồng nghệ thuật và khán giả vở diễn “Đồng tiền Vạn Lịch”, một vở chèo cổ được xây dựng kịch bản dựa trên tích truyện văn học dân gian. Ngay trong buổi diễn báo cáo, vở chèo “Đồng tiền Vạn Lịch” đã nhận được nhiều lời ngợi khen từ Hội đồng nghệ thuật cũng như khán giả. Hiện Đoàn chèo Hải Phòng vẫn đang tích cực hoàn thiện để nâng cao chất lượng cho vở.

Mối nhân duyên éo le

“Đồng tiền Vạn Lịch” là bức tranh cuộc sống của người dân Bến Hạ ở bên bờ sông Cả. Đây cũng là nơi se duyên cho Vạn Lịch (diễn viên Thanh Bình) và Ngọc Mai (diễn viên Hương Huế). Cha mẹ Ngọc Mai trước đây từng là bạn buôn bán với Vạn Lịch, vì gặp nạn mà Ngọc Mai bơ vơ, phải sống trong nhà Phú ông, một kẻ hám tiền của. Và chính Vạn Lịch, vì cảm thương, yêu mến Ngọc Mai mà đã tìm đến để kết duyên cùng nàng khi Phú ông thông báo cùng lúc kén rể cho cả con gái hắn, Kim Xuân,và Ngọc Mai. “Kẻ tham tiền dùng tiền là được”, bằng tiền vàng, Vạn Lịch đã cứu được Ngọc Mai ra khỏi chốn tù túng, giả nhân giả nghĩa bấy lâu và nên duyên vợ chồng từ đó.

Nhưng cũng vì tình yêu, vì ghen tuông mù quáng mà Vạn Lịch đã đuổi vợ ra khỏi nhà. Cơ sự là khi chàng khờ Đỗ Bở (diễn viên Văn Mởn) đi đánh giậm ở ngay gần nơi đậu thuyền của vợ chồng Vạn Lịch, không may bị cảm. Khi ấy chỉ có Ngọc Mai ở trên thuyền. Nàng đã đưa Đỗ Bở lên thuyền nghỉ ngơi và săn sóc. Vạn Lịch bắt gặp cảnh đó mà nghi ngờ lòng thủy chung của vợ, đưa cho nàng một thỏi vàng và đuổi đi. Bị chồng đoạn tuyệt, Ngọc Mai quyên sinh nhưng không thành, may mắn gặp lại Đỗ Bở cứu giúp và về ở cùng chàng khờ trong túp lều tranh lụp xụp.

Câu chuyện về sự nhân nghĩa

Sống cùng Ngọc Mai, Đỗ Bở được nàng chỉ bảo những điều hay dở ở đời, nhất là cách chọn bạn mà chơi. Đi đánh giậm, Đỗ Bở phát hiện ra có rất nhiều vàng nhưng không hay biết. Cho đến khi về nhà, tình cờ một lần chàng ta cầm thỏi vàng năm xưa của Ngọc Mai mang ra đáp vịt thì mới được vợ chỉ cho và dặn ra chỗ bờ sông mang hết chỗ vàng đó về nhà.

Ngờ nghệch, khờ khạo, nghe lời vợ đi tìm bạn để kết thân, Đỗ Bở lên đền làm bạn với phỗng, ngày rằm, mùng một đều mang rượu đến uống với tượng phỗng. Trong lúc say rượu, Đỗ Bở đã bê nguyên cả tượng phỗng rời khỏi chỗ cũ. Bởi vì thế mà mấy ngày sau khi nhà vua đến thăm đền thì lâm bệnh. Cả làng từ ai cũng ra sức nâng tượng phỗng về chỗ cũ mà không được. Đỗ Bở được triệu đến và chỉ có Đỗ Bở mới nhẹ tay một cái là bê được cả bức tượng về chỗ cũ. Nhà vua không trách tội mà coi đó như là sự thấu hiểu giữa bậc thánh thần với kẻ lương thiện, không có mưu đồ gì xấu xa và còn ban thưởng cho vợ chồng Đỗ Bở và Ngọc Mai.

Mong ước bấy lâu một lần được gặp lại Vạn Lịch để trả lại thoi vàng năm xưa nên Ngọc Mai đã xin nhà vua cho nhận một chân tuần ty ở sông Cả, thu thuế của các thuyền buôn. Nhà vua đồng ý ngay và từ đó hai vợ chồng Đỗ Bở chuyển ra sống bên cửa sông để làm nhiệm vụ. Từ đây mà ba người Đỗ Bở – Ngọc Mai – Vạn Lịch đã tái ngộ. Lúc này mới hay, số vàng bị chìm ở bãi vũng chính là từ thuyền của Vạn Lịch bị bão nhấn chìm năm xưa. Ngọc Mai muốn trả lại cho Vạn Lịch thì nhận được lời chối từ: “Điều quý nhất tự tôi làm mất/ Vàng bạc bây giờ cũng vô nghĩa mà thôi”. Còn Đỗ Bở thì mong muốn Ngọc Mai trở về sống cùng với Vạn Lịch như thuở nào. Khẳng khái từ chối, Vạn Lịch kiên quyết rời đi và chúc phúc cho hai người. Về số vàng bạc, Ngọc Mai xin với nhà vua cho đúc thành tiền Vạn Lịch để phân phát cho người nghèo để đồng tiền nhân nghĩa còn mãi với muôn đời.

Vạn Lịch vì ghen tuông mù quáng đã đoạn tình với Ngọc Mai

Giá trị nhân văn còn mãi

Kịch bản chèo “Đồng tiền Vạn Lịch” do Trưởng đoàn Vũ Huy Thành xây dựng từ truyện cổ tích cùng tên với nhiều sự sáng tạo. Đạo diễn Lê Thanh Tùng tiếp tục thổi hồn cho vở diễn với những nét tinh tế trong nghệ thuật biểu diễn. Cùng với đó, dàn diễn viên nổi trội của Đoàn chèo Hải Phòng khi được phân vai đã hết sức tập luyện để thể hiện được ý tứ của tác phẩm. “Đồng tiền Vạn Lịch” tiếp tục là một vở chèo thể hiện dấu ấn, sức sống mới của Đoàn chèo Hải Phòng trong đời sống sân khấu chèo hiện nay.

Tác giả Vũ Huy Thành cho biết “Bộ ba diễn viên: Thanh Bình – Hương Huế – Văn Mởn của đoàn một lần nữa lại được tin tưởng giao hóa thân vào ba nhân vật chính của vở, trong một mối nhân duyên éo le. Xoay quanh mối nhân duyên giữa ba nhân vật, vở chèo lên án những kẻ chạy theo sự giàu sang phú quý mà quên đi điều nhân nghĩa”. Đây cũng là bộ ba diễn viên ăn ý ở nhiều vở diễn thành công của đoàn trong thời gian qua. Các nghệ sĩ cho biết đảm nhận vai diễn mới với những màu sắc mới nên ai cũng cố gắng để thể hiện tròn vai và điều vui mừng nhất là khi nhận được những ngợi khen ban đầu từ phía khán giả.

Qua sự sáng tạo của tác giả kịch bản, sự tích “Đồng tiền Vạn Lịch” trong vở chèo được xem là một câu chuyện nhân văn cao cả, giàu tính hướng thiện khi xây dựng tuyến nhân vật chính đều là những con người khẳng khái, nghĩa trực. Cùng với đó, tuyến các nhân vật phụ: Phú ông, Bà Vơ, Kim Xuân, Lý trưởng, Dậu… với lối diễn hài hước và những nét duyên của hề chèo đã làm nổi bật thêm chủ đề của tác phẩm. “Muôn đời trăng khuyết lại tròn/ Sinh sinh, diệt diệt ấy vòng hóa công/ Sân, si, tham, mạn làm chi/ Cuộc đời mang lại điều gì cho nhau/ Muốn ăn quả ngọt mai sau/ Trồng cây phúc đức bền lâu đời đời”. Những câu hát khép lại cánh màn nhung của vở diễn cũng là lời kết cho một câu chuyện đạo đức đầy nghĩa tình với người xem.

Các bạn có thể xem lại vở chèo tại đây.

Huyền Trâm

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản Dân ca Quan họ

Văn hóa Quan họ là một hình thái hoạt động văn hóa mang tính độc đáo trong đời sống sinh hoạt cộng đồng của người dân Bắc Ninh – Kinh Bắc. Trong kho tàng dân ca Việt Nam, Dân ca Quan họ Bắc Ninh là loại hình dân ca tiêu biểu nhất, phát triển đạt tới trình độ cao, hoàn chỉnh cả về phương diện âm nhạc, lời ca và hình thức trình diễn.

Sức sống của Di sản văn hóa Quan họ

Ngày 30/9/2009, Dân ca Quan họ Bắc Ninh đã chính thức được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Sau gần 10 năm kể từ ngày được vinh danh, Dân ca Quan họ Bắc Ninh đã có sức sống lan tỏa mãnh liệt.

Theo kết quả điều tra, khảo sát cho thấy, hiện nay trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có 44 làng Quan họ gốc, 396 Câu lạc bộ Quan họ thực hành với 8.465 người tham gia, trong đó có 593 người có khả năng truyền dạy… Số người tham gia các Câu lạc bộ tập trung ở cả ba thế hệ, tỷ lệ nam giới chiếm khoảng 30%, nữ giới chiếm 70% trên tổng số.

Trên địa bàn toàn tỉnh có 547 lễ hội và được diễn ra trong cả năm, tập trung vào mùa xuân. Hầu hết các lễ hội đều có các hoạt động mang đậm sinh hoạt văn hóa Quan họ. Không chỉ có vậy, Quan họ còn được hát mừng khi nhà có tiệc vui hay khi các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp khai trương, Hội nghị và hát Quan họ phục vụ khách du lịch khi về với quê hương Bắc Ninh.

Bên cạnh đó, Dân ca Quan họ Bắc Ninh cũng được truyền dạy cho học sinh trong các trường học trên địa bàn tỉnh. Tài liệu dạy hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh trong các nhà trường được thẩm định về khoa học Âm nhạc và khoa học Sư phạm. Sau khi thẩm định, tài liệu chính thức được đưa vào giảng dạy trong các nhà trường phổ thông trên địa bàn tỉnh bắt đầu từ năm học 2011-2012.

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản Dân ca Quan họ

Thực trạng những mối đe dọa ảnh hưởng đến di sản

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi cơ cấu xã hội, cùng với những điều kiện khác đã tạo ra nhiều cơ hội đối thoại mới giữa các cộng đồng, đồng thời cũng làm nảy sinh những mối đe dọa về sự suy thoái, biến dạng của di sản.

Bản chất của Dân ca Quan họ Bắc Ninh là tập quán xã hội – phương thức sinh hoạt cộng đồng. Tuy nhiên, ngày nay phương thức sinh hoạt này ở một phương diện nào đó đang bị coi là một thương phẩm để mưu cầu lợi nhuận. Vậy nên, tính chất của nó có phần bị biến dạng.

Vấn đề đô thị hóa cũng tác động không nhỏ tới việc bảo vệ các không gian tự nhiên. Dân ca Quan họ Bắc Ninh được hình thành và phát triển gắn liền với các không gian văn hóa làng xã.

Hiện nay, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở Bắc Ninh được phát triển mạnh mẽ, một số làng Quan họ gốc nay đã thành phố, thành phường. Không gian văn hóa Quan họ làng xã truyền thống đang bị thu hẹp dần.

Thêm nữa, Dân ca Quan họ Bắc Ninh đang là nội dung thu hút và hấp dẫn khách du lịch. Du lịch tìm hiểu về văn hóa Quan họ có thể phát huy, biến tiềm năng của văn hóa Quan họ thành động lực phát triển.

Tuy nhiên, du lịch có thể khiến cho các hình thức trình diễn, không gian trình diễn, thậm chí tính chất của Dân ca Quan họ có thể bị biến đổi.

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản Dân ca Quan họ 2

Công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản

Để thực hiện tốt công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản Dân ca Quan họ Bắc Ninh, UBND tỉnh Bắc Ninh tiếp tục tuyên truyền, quảng bá về di sản; duy trì các Câu lạc bộ Dân ca Quan họ Bắc Ninh sinh hoạt thường xuyên và tổ chức truyền dạy Dân ca Quan họ Bắc Ninh tại cộng đồng; phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tiếp tục thực hiện chương trình giảng dạy Dân ca Quan họ Bắc Ninh trong các trường học; hỗ trợ đầu tư tu bổ, xây dựng một số thiết chế văn hóa phục vụ nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị di sản; ban hành cơ chế chính sách tôn vinh, đãi ngộ nghệ nhân.

Thực hiện cam kết với UNESCO về việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân ca Quan họ, UBND tỉnh Bắc Ninh đã phát động các cấp, ngành và cộng đồng nhân dân các địa phương triển khai thực hiện các đề án, chương trình nhằm bảo tồn và phát huy giá trị Dân ca Quan họ và đạt được nhiều kết quả tiêu biểu: tổ chức thành công Lễ khai mạc Festival năm 2010 gắn với Lễ đón nhận Bằng công nhận dân ca Quan họ Bắc Ninh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; hằng năm tổ chức Hội thi hát dân ca Quan họ vào dịp đầu xuân; đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị cho các làng quan họ gốc và các Câu lạc bộ Quan họ…

Đặc biệt, Bắc Ninh là tỉnh đi đầu cả nước trong việc xây dựng cơ chế chính sách tôn vinh đãi ngộ nghệ nhân di sản văn hóa, trong đó có nghệ nhân quan họ.

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản Dân ca Quan họ 3

Sau gần 10 năm được UNESCO vinh danh, công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Dân ca Quan họ của tỉnh Bắc Ninh đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn cần phải khắc phục hơn nữa.

Văn hóa công nghiệp với nhịp sống, lối sống nhanh, gấp và hội nhập quốc tế với các làn sóng ngoại lai đa chiều đã ảnh hưởng lớn đến sức sống của nền văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa quan họ nói riêng.

Công tác tuyên truyền, quảng bá đã được quan tâm nhưng chưa thống nhất và toàn diện về giá trị của di sản; văn hóa cần gắn kết tốt hơn để phát triển du lịch.

Công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa chưa khai thác, phát huy được tiềm năng của di sản Dân ca Quan họ Bắc Ninh vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội. Công tác truyền dạy Dân ca Quan họ ở cộng đồng chưa thực sự được tổ chức bài bản. Việc đầu tư phục dựng một số thiết chế để thu hút và lưu giữ khách du lịch chưa được triển khai.

Nhận thức của một số cấp ủy Đảng, Chính quyền cơ sở về di sản Dân ca Quan họ Bắc Ninh còn hạn chế nên chưa có sự quan tâm một cách tích cực trong thực hiện.

Để tiếp tục làm tốt công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản Dân ca Quan họ Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh đề nghị Tổ chức UNESCO và Chính phủ quan tâm hơn nữa về chủ trương, cơ chế chính sách, kinh phí để thực hiện tốt hơn nữa Chương trình cam kết với UNESCO về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Quan họ.

Minh Hằng

Theo baomoi.com

Hệ thống bài bản trong Hát văn hầu

Tác giả bài viết đề cập tới quá trình phát triển của hệ thống bài bản trong Hát văn hầu từ nửa đầu thế kỷ XX tới nay.

Hệ thống bài bản trong Hát văn hầu

Hát văn là một hình thức âm nhạc sinh ra để phục vụ tín ngưỡng Tứ phủ, một tín ngưỡng thờ Mẫu (Mẹ), từ lâu đã bám rễ sâu trong đời sống tâm linh của cư dân Việt. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, Hát văn đã thể hiện khả năng thích ứng của mình đối với những biến đổi xã hội. Trong đời sống xã hội hiện đại, bản chất động-mở nghĩa là luôn bổ sung cái mới của nhạc Hát văn từ hệ thống bài bản đến làn điệu, nhịp điệu, nhạc cụ v.v… giúp cho nhạc Hát văn luôn tràn trề nhựa sống. Bản chất đó đảm bảo cho chủ thể luôn vận động, tồn tại và phát triển. Chúng ta không phủ nhận những đóng góp như thế đã làm giàu có, làm phong phú cho dòng chảy của Hát văn nhưng bên cạnh đó, khuynh hướng đi xa gốc gác của Hát văn cũng cần được quan tâm, cũng đáng để ta suy nghĩ.

Thực trạng ấy càng thôi thúc chúng tôi đi tìm hiểu và nghiên cứu xem vào thế kỷ trước các cung văn đã vận dụng Hát văn phục vụ cho tín ngưỡng Tứ phủ như thế nào. Những nhân chứng sống, những người đã nhiều năm lăn lộn với nghề Hát văn không còn nhiều và đều ở độ tuổi cao như nghệ nhân Hoàng Trọng Kha đã ngoài 90 tuổi, nghệ nhân Nguyễn Văn Tuất đã ngoài 80 tuổi. May mắn, chúng tôi vẫn kịp phỏng vấn cố nghệ nhân Lê Bá Cao, một trong những “cây đa, cây đề” của làng Hát văn trong vòng gần chục năm trước khi cụ ra đi (1932-2013). Cố nghệ nhân Lê Bá Cao có lần mặc dù bị ốm, nhưng vẫn rất nhiệt tình chia sẻ với chúng tôi về những kỷ niệm đi hát; giải thích từng làn điệu, từng kỹ thuật đàn, hát. Nghệ nhân Hoàng Trọng Kha dù tuổi đã cao, mắt đã mờ vẫn đọc và giải thích từng chữ trong cuốn lời ca ghi bằng chữ Hán-Nôm của ông. Những kiến thức mà các cụ truyền lại đã giúp ích rất nhiều cho hành trang nghiên cứu về Hát văn của chúng tôi.

Theo các nghệ nhân, trước đây, Hát văn có ba hình thức chính, đó là: Hát văn thờ, Hát văn hầu và Hát văn thi. Hát văn thờ là hát dâng bản văn sự tích để ca ngợi công đức của vị Thánh mà mỗi đền thờ phụng vào ngày đản nhật (ngày sinh), ngày tiệc (ngày mất), hoặc hát bản văn Công đồng để thỉnh mời toàn bộ các vị thần của tín ngưỡng này về chứng giám vào những dịp chính trong năm. Hát văn hầu là hình thức âm nhạc phục vụ cho nghi lễ hầu bóng. Đối với các vị chủ đền hay những ông bà đồng thì các buổi hầu bóng diễn ra vào nhiều dịp trong năm. Hát văn thi thường được tổ chức vào những ngày lễ lớn để thúc đẩy tài năng của cung văn. Ngày nay, người ta chỉ còn biết tới hai hình thức chính là Hát văn thờ và Hát văn hầu. Hát văn thi theo lối truyền thống không còn được tổ chức. Nếu trong Hát văn thờ, bài bản được gọi là bản văn sự tích, thì trong Hát văn hầu, bài bản được gọi là bản văn chầu nhằm phục vụ cho một giá đồng. Nếu tính về thời lượng thì bản văn sự tích dài hơn bản văn chầu, còn tính về số lượng thì bản văn chầu nhiều hơn bản văn sự tích.

Bài viết này xin đề cập tới hệ thống bài bản trong Hát văn hầu. Chúng tôi dựa trên ba nguồn tư liệu: 1. Một số cuốn lời ca Hát văn bằng chữ Hán-Nôm, 2. Cuốn lời ca Hát văn do cố nghệ nhân Phạm Văn Kiêm sáng tác và sưu tầm, 3. Một số văn bản bài văn chầu (100 bài hát chầu văn) trong cuốn Đạo Mẫu Việt Nam của tác giả Ngô Đức Thịnh.

Một số cuốn lời ca bằng chữ Hán-Nôm

Thật may mắn, chúng tôi đã sưu tầm được ba cuốn lời ca Hát văn bằng chữ Hán-Nôm, đó là: cuốn Công văn quyển – ký hiệu AB.629 lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, cuốn lời ca do nghệ nhân Hoàng Trọng Kha cung cấp và cuốn lời ca do cung văn Nguyễn Hà Cân cung cấp. Mặc dù, tài liệu chưa thật đầy đủ, cũng không đề cập tới thời gian ghi chép, nhưng đó thực sự là những tài liệu quý giá, giúp chúng tôi phần nào hiểu được bài bản Hát văn trước của cha ông truyền lại.

Dưới đây là hệ thống bài bản qua ba cuốn Hán-Nôm:

Hệ thống bài bản trong Hát văn hầu 1
Hệ thống bài bản trong Hát văn hầu -2

Các cung văn từ xưa đã có ý thức ghi lại lời ca của Hát văn bằng chữ Hán-Nôm trên giấy dó[1] để truyền lại cho con cháu. Có nghệ nhân gọi đó là văn bia (những bản văn được ghi lại bằng chữ) để phân biệt với văn miệng (những bản văn được lưu lại qua truyền miệng). Cuốn Hán-Nôm được truyền từ đời nọ sang đời kia, thậm chí có tuổi đời hơn một thế kỷ. Đó thật sự là tài sản vô giá, được trân trọng cất giữ trong nhà những nghệ nhân văn võ song toàn nghĩa là biết cúng, biết chữ Hán-Nôm, biết viết sớ và biết Hát văn. Các cung văn trẻ ngày nay chủ yếu học Hát văn qua chữ quốc ngữ, không biết chữ Hán-Nôm, không biết cúng, không biết viết sớ nên phần lớn trong số họ sẽ bỏ qua việc tìm hiểu những bài bản trước đây bằng chữ Hán-Nôm mà cha ông đã truyền lại.

Qua ba cuốn Hán-Nôm trên, chúng ta thấy các bài bản được viết không theo trật tự nhất định, bản văn sự tích (Hát văn thờ), xen kẽ với bản văn chầu (Hát văn hầu). Theo nghệ nhân Hoàng Trọng Kha, cuốn Hán-Nôm mà ông đang sở hữu là do cụ thân sinh ra ông – cung văn Hoàng Tú Rạ truyền lại. Cụ Rạ thường mượn sách của bạn cũng là cung văn rồi về chép lại nên bài bản không được sắp xếp theo thứ tự như trên cùng là Tam tòa thánh Mẫu, rồi đến hàng Quan, hàng Chầu, hàng ông Hoàng, hàng Cô, hàng Cậu[2].

Bảng trình bày ở trên cho chúng ta biết, Tam tòa thánh Mẫu gồm Mẫu đệ nhất thượng thiên, Mẫu đệ nhị địa tiên, Mẫu đệ tam thoải tiên. Các vị khi về đồng chỉ giáng trùm khăn, được gọi là hầu tráng bóng có nghĩa không được phép lộ diện, không có bản văn chầu riêng cho mỗi vị mà chỉ có bản văn tổng như Tam tòa văn (cuốn 2: số 11) hay Công đồng tam tòa (cuốn 3: số 11).

Trong Ngũ vị vương quan thì Đệ tam vương quan và Đệ ngũ vương quan là hai vị thánh có đền thờ riêng (ngày nay cả năm vị Quan đều đã có đền thờ riêng), có thần tích, có danh tiếng lừng lẫy, được các con nhang đệ tử tôn kính phụng thờ và đặc biệt rất hay giáng đồng nên đều có bản văn ca ngợi các ngài trong ba cuốn Hán-Nôm (cuốn 1: số 11,12; cuốn 2: số 5, 7; cuốn 3: số 2, 3). Riêng Đệ nhất tôn ông văn, Đệ nhị tôn ông văn, Đệ tứ tôn ông văn (cuốn 2: số 24, 25, 26) là những bản văn về Quan đệ nhất, Quan đệ nhị, Quan đệ tứ cũng là những vị thường ít về, nên chỉ được ghi lại trong cuốn Hán-Nôm của nghệ nhân Hoàng Trọng Kha. Ngoài Ngũ vị vương Quan, trong cuốn 2 và cuốn 3 còn có bản văn về Quan Triệu Tường (cuốn 2: số 9, cuốn 3: số 13), Quan Điều thất (cuốn 2: số 8, cuốn 3: số 15) đây là những vị thánh bản cảnh, thánh địa phương như Quan Triệu Tường được thờ chính ở Thanh Hóa, Quan Điều thất ở Thái Bình, ra nhập sau vào điện thờ tín ngưỡng Tứ phủ.

Sau hàng Quan, bài bản của hàng Chầu không nhiều, chỉ hai vị có bản văn riêng, đó là Chầu đệ nhị, Chầu đệ tứ. Chầu đệ nhị là vị thánh trên thượng ngàn, được thờ ở Đông Cuông, Yên Bái, thường hay giáng đồng (cuốn 1: số 5, 6; cuốn 2: số 12). Chầu đệ tứ cai quản địa phủ, được sắc phong là Chiêu Dung công chúa, là thánh ở An Thái, Vụ Bản, Nam Định (cuốn 1: số 16; cuốn 2: số 16, 17; cuốn 3: số 10). Cung văn Hà Cân đã giải thích thắc mắc của chúng tôi về việc tại sao văn Chầu đệ tứ lại có mặt trong cả ba cuốn Hán-Nôm:“Chầu đệ tứ khâm sai sắc hạ từ Phủ Giày, những nơi danh lam thắng tích nhiều thì các cụ hay chú trọng để sáng tác văn”[3].

Bài bản của hàng ông Hoàng cũng rất hiếm hoi, chỉ có hai vị thánh thường hay giáng đồng, được con nhang đệ tử ngưỡng vọng đó là Hoàng Bảy Bảo Hà (cuốn 2: số 10, cuốn 3: số 14) và Hoàng Mười (cuốn 3: số 12) có bản văn riêng. Bài bản hàng Cô cũng chỉ ghi nhận bản Cô ngàn văn (cuốn 2: số 19), Thượng ngàn tiên cô văn (cuốn 2: số 22) viết về các cô trên thượng ngàn có thể trích ra để hát trong giá Cô Đôi; bản Cửu tỉnh tiên cô văn (cuốn 2: số 21) nói về Cô Chín đền Sòng. Đặc biệt, trong cả ba cuốn Hán-Nôm không ghi nhận bản văn riêng về một vị thánh nào thuộc hàng Cậu. Bản Quan tướng (cuốn 3: số 18) là về Quan Ngũ hổ còn gọi là Quan hạ ban vì năm ông hổ đại diện cho năm phương được thờ ở dưới hạ ban. Quan ngũ hổ thường ít giáng đồng, khi ngài về thường nhai đĩa, ăn thịt sống!.

Như vậy, ngoại trừ hàng Quan có đầy đủ bản văn riêng cho từng vị từ Quan đệ nhất tới Quan đệ ngũ, Quan Triệu Tường, Quan Điều thất thì từ hàng Chầu trở xuống chỉ những vị thánh thường hay giáng đồng, tiêu biểu cho từng hàng mới có bản văn riêng, thậm chí hàng Cậu không có bản văn nào. Một điểm đáng lưu ý là mặc dù không có đầy đủ bản văn riêng cho từng vị thánh, nhưng lại có bản văn tổng cho từng hàng, nhờ đó cung văn có thể trích ra để hát. Hàng Quan có bản Ngũ vị tôn ông văn (cuốn 2: số 23), Ngũ vị vương Quan (cuốn 3: số 4) nghĩa là bản văn chung cho năm vị Quan; hàng ông Hoàng với bản Quý hoàng tử văn (cuốn 2: số 29) hoặc Thập vị Hoàng tử văn (cuốn 2: số 28) viết về mười ông Hoàng; hàng Cô với Thập nhị Cô nương văn (cuốn 1: số 19) đề cập tới mười hai vị thánh hàng Cô; hàng Cậu với Thập nhị chầu Quận văn (cuốn 1: số 18) nói về mười hai vị thánh hàng Cậu. Trong cả ba cuốn Hán-Nôm không thấy có bản văn tổng của hàng Chầu, chỉ thấy bản Ngũ vị thánh Bà văn (cuốn 1: số 7) và Ngoại cảnh thánh Bà văn (cuốn 1: số 8) nhưng không đề cập tới các vị thánh ở hàng Chầu mà viết về thánh Ngũ phương nghĩa là năm Bà cai quản năm phương: đông, tây, nam, bắc, trung ương.

Có thể nói, ngày nay, đối với nhiều người Việt Nam, cùng với việc thông dụng của chữ quốc ngữ, các cuốn sách Hán-Nôm đã trở thành đồ cổ nhưng khi giải mã những cổ vật này thì chúng lại cung cấp cho ta khá nhiều thông tin thú vị về Hát văn trước đây. Các bản văn chầu thường khuyết danh, không có tên tác giả và có những dị bản khác nhau. Số lượng bản văn chầu không nhiều, không có đầy đủ những bản văn dành riêng cho từng vị thánh nhưng cung văn có thể trích ra hát từ bản văn tổng của từng hàng. Cho đến nay, những cuốn lời ca Hát văn bằng chữ Hán-Nôm còn lại không nhiều, việc xem xét chúng chính là một trong những cách tiếp cận giúp ta phần nào hiểu biết thêm về Hát văn từ thời cha ông thuở trước.

Cuốn ghi lời ca Hát văn do cố nghệ nhân Phạm Văn Kiêm sáng tác và sưu tầm

Nếu cuốn lời ca Hát văn bằng chữ Hán-Nôm là bằng chứng giúp chúng ta hiểu về bài bản Hát văn khoảng nửa đầu thế kỷ XX thì cuốn lời ca Hát văn do cố nghệ nhân Phạm Văn Kiêm sưu tầm và sáng tác lại là một tài liệu quý ghi lại quá trình phát triển của hệ thống bài bản Hát văn từ nửa sau thế kỷ XX.

Một số cung văn, trong quá trình hành nghề đã sáng tạo những làn điệu, bản văn mới. Một trong những người được nhắc đến nhiều nhất là cố nghệ nhân Phạm Văn Kiêm (1921-1998). Ông không chỉ là thầy cúng, cung văn giỏi, am hiểu chữ Hán-Nôm mà còn là người có căn đồng nên ông rất trọng công việc của tín ngưỡng Tứ phủ. Theo lời kể của nghệ nhân Hoàng Trọng Kha, người đã từng đi hát trong thời gian dài với ông Phạm Văn Kiêm, thì “Nhiều bản văn ngồi đồng hiện nay đều là do ông Kiêm sáng tác. Ông Kiêm có trình độ học vấn, đi đến đâu cũng chịu khó sưu tầm sự tích vị thánh của địa phương, về vận dụng đặt lời sao cho thượng tùy hạ tiếp và đưa làn điệu vào”[4]. Cố nghệ nhân Lê Bá Cao nhớ lại những kỷ niệm đi Hát văn xưa: “Làm gì có văn ông Hoàng Chín, hát được một câu rồi chúng tôi ngồi đực ra đấy, phải lấy lời ca bài Bầu trời cảnh Phật thú Hương sơn để Hát nói. Sau này ở Hà Nội lên đồng ông Hoàng Chín, buộc lòng ông Phạm Văn Kiêm phải soạn ra bản văn ông Hoàng Chín.”[5] Như vậy, bên cạnh những vị thánh Tứ phủ, tín ngưỡng vẫn tiếp tục bổ sung những vị thánh là nhân thần, thánh bản cảnh địa phương, bởi vậy các cung văn phải sáng tác những bản văn mới để phục vụ thánh.

Cuốn lời ca do bác Phạm Văn Kiêm sáng tác và sưu tầm dài 257 trang, được viết bằng chữ quốc ngữ, đã đăng ký Cục Bản quyền tác giả ngày 31 tháng 5 năm 1995. Bên cạnh những bản văn do cố nghệ nhân Phạm Văn Kiêm sáng tác, cuốn lời ca cũng ghi lại những bản văn của các tác giả Đoàn Đức Đan, Chu Hà, Tản Đà (số lượng ít). Như vậy, bài bản Hát văn từ chỗ khuyết danh, là sản phẩm chung của cộng đồng thì nay đã ghi tên tác giả. Cuốn lời ca Hát văn do ông Trần Trung Tiến sao lục năm 1974, 1975, 1976, 1979, 1980, 1981. Có bài ghi rõ năm tác giả hoàn thành, nhiều bài không ghi, nhưng căn cứ vào thời điểm sao lục cho thấy các bản văn được sáng tác vào khoảng những năm 70 của thế kỷ XX. Toàn bộ cuốn sách có 74 bài, trong đó có 16 bài văn sự tích (Hát văn thờ), 33 bản văn chầu (Hát văn hầu) và 25 bản văn nhỏ. Các bản văn chầu có thể kể tới như:

Hệ thống bài bản trong Hát văn hầu 4

Nếu trong những cuốn Hán-Nôm, bài bản hàng Quan là đầy đủ nhất, có từng bản văn riêng cho mỗi vị Quan, từ hàng Chầu trở xuống, mỗi hàng chỉ khoảng hai bài dành cho những vị thánh tiêu biểu, thậm chí hàng Cậu không có bản văn nào thì trong cuốn lời ca Hát văn của mình, cố nghệ nhân Phạm Văn Kiêm như muốn lấp đầy những chỗ trống đó. Ông tập trung sáng tác nhiều bài bản cho các vị thánh ở hàng Chầu, hàng ông Hoàng, hàng Cô và hàng Cậu.

Bên cạnh hệ thống thần linh chủ chốt như Tam tòa thánh Mẫu, Ngũ vị vương quan, Tứ phủ khâm sai (Chầu), Thập vị Hoàng tử (Hoàng), Thập nhị Cô nương (Cô), Thập nhị chầu quận (Cậu), thần điện của tín ngưỡng Tứ phủ có xu hướng du nhập thêm các vị thánh bản cảnh, ở các địa phương khác nhau. Bởi vậy, trong cuốn lời ca Hát văn của cố nghệ nhân Phạm Văn Kiêm có nhiều vị thánh ở các địa phương như Chầu Thác Bờ ở Thác Bờ, Hoà Bình; Hoàng Báo ở Đông Cuông, Yên Bái; Cô đệ nhất Vân Đình, Cô Ba Tây Hồ, Cô Ba Hà Thành ở Hà Nội; Cô Cam Đường ở Bắc Ninh; Cô Bé Minh Lương ở Tuyên Quang; Cậu quận ở Long Thành, Đồng Nai v.v… Điều đó nói lên rằng, cùng với việc bổ sung các vị thánh địa phương vào điện thờ của tín ngưỡng Tứ phủ, số lượng bài bản Hát văn hầu cũng không đứng yên mà tiếp tục được gia tăng.

Không chỉ sáng tác những bản văn sự tích (Hát văn thờ), bản văn chầu (Hát văn hầu), cố nghệ nhân Phạm Văn Kiêm còn viết những bản văn ngắn như bài Sai hương để hát Sai trong nghi thức khai quang; Múa quạt, Song đăng, Dệt cửi, Múa lụa, Chèo đò để hát trong nghi thức múa của thánh nữ; bài Thả lưới, Tổ tôm, Tam cúc được hát trong giá hàng Cậu phù hợp tính cách tinh nghịch, ham hoạt động của các vị thánh nhỏ tuổi trong điện thờ Tứ phủ.

Cuốn lời ca của tác giả Phạm Văn Kiêm đã thể hiện một tài năng về thơ phú, lòng tâm huyết với nghề nghiệp và một quá trình làm việc không biết mệt mỏi, ông đã để lại cho thế hệ sau một khối lượng bài bản thật đồ sộ và phong phú. Những việc làm âm thầm của ông đã góp phần không nhỏ cho dòng chảy phát triển của nghệ thuật Hát văn. Cho đến ngày nay, nhiều bài bản do cố nghệ nhân Phạm Văn Kiêm viết ra được các thế hệ cung văn vận dụng trong những buổi hầu bóng, bởi vậy danh tiếng của ông luôn nhận được sự tôn kính của làng Hát văn.

Sách “Đạo Mẫu Việt Nam – Một số văn bản bài văn chầu (100 bài hát chầu văn)”

“Một số văn bản bài văn chầu” này được in trong phần Phụ lục cuốn sách Đạo Mẫu Việt Nam của GS.TS. Ngô Đức Thịnh, do nhà xuất bản Tôn giáo ấn hành năm 2010. Tác giả có viết: “… chúng tôi chọn và cho in 100 bài hát chầu văn thường hát trong các cuộc Lên đồng. Đây là các bài tương đối tiêu biểu, thường hay được hát trong các giá hầu bóng ở các đền, phủ, xếp theo thứ tự các giá: từ Giá Mẫu, Hàng Quan, Chầu, ông Hoàng, Cô, Cậu… Các bài hát văn này chỉ là một phần nhỏ trong kho vốn các bài hát văn đã và đang lưu truyền hiện nay.”[6]

Tác giả ghi rõ đây là tập hợp “100 bài hát chầu văn thường hát trong các cuộc Lên đồng[7]”, nhưng khi phân tích, chúng tôi nhận thấy hoàn toàn không phải chỉ có bản văn chầu, hay những bản văn ngắn dùng trong Hát văn hầu mà còn có cả bản văn sự tích dùng trong Hát văn thờ, Hát văn Huế, những bản cúng. Con số 100 bài hát chầu văn cũng đáng lưu ý. Trong quá trình thống kê, chúng tôi thấy con số lên tới 101 bài, nhưng có hai cặp bài trùng nhau, nên trên thực tế chỉ còn 99 bài bản.

Bộ sưu tầm 100 bài hát Chầu văn trong cuốn Đạo Mẫu Việt Nam đã đăng 10 bản văn về đức thánh Trần cùng các bộ hạ của ông: 1. Trần Triều sự tích văn, 2. Văn thánh Trần Triều, 3. Văn thờ nhị vị công chúa, 4. Văn Đệ nhất vương cô, 5. Văn Đệ nhị vương Cô, 6. Ông Đệ tam Cửa Suốt, 7. Văn đức thánh Phạm, 8. Văn chầu Trần Triều hiển thánh, 9. Trần Triều sự tích văn, 10. Văn thánh Trần Triều. Trong đó, bản văn 1 trùng với bản văn 9, bản văn 2 trùng bản văn 10 (cả về tên bài và nội dung), vậy nên số lượng bài bản về nhà Trần dừng lại ở con số 8 bài.

Hệ thống bài bản trong phần Phụ lục của cuốn Đạo Mẫu Việt Nam, ngoài 24 bản văn sự tích (Hát văn thờ), 10 bản văn nhà Trần (trong đó có hai cặp bài trùng nhau), 11 bản văn của Huế, 7 bản văn ngắn, 4 bản cúng, còn lại là 45 bản văn chầu là:

Hệ thống bài bản trong Hát văn hầu

45 bản văn chầu được sắp xếp lần lượt theo thứ tự các hàng từ cao xuống thấp: Tam tòa thánh Mẫu, hàng Quan, hàng Chầu, hàng ông Hoàng, hàng Cô, hàng Cậu. Trước mỗi hàng thường có một bản văn tổng có thể trích ra để hát như: Tam tòa thánh Mẫu, Ngũ vị Hoàng tử, Thập vị Hoàng tử, Thập nhị tiên nàng, Các Cô văn. Trong bộ sưu tầm này không có bản văn tổng cho hàng Chầu và hàng Cậu.

Trong 45 bản văn, có một số dị bản viết cho cùng một vị thánh như Đệ nhị vương Quan văn hay Ông giám sát văn viết về Quan đệ nhị; Chầu Thác Bờ của Đoàn Đức Đang, Chầu Thác Bờ của Phạm Văn Kiêm ca ngợi Chầu Thác Bờ; Cô Cam Đường của Đoàn Đức Đan hoặc Văn Cô Cam Đường của Phạm Văn Kiêm về Cô Cam Đường; Cô Chín văn hay Cô Chín Giếng của Đoàn Đức Đan về Cô Chín, còn lại mỗi bản văn dành cho một vị thánh. Như vậy, 45 bản văn được viết cho 36 vị thánh, tương ứng với 36 giá đồng.

Các bản văn phần lớn là khuyết danh, nhưng cũng đã có những bản văn ghi tên tác giả mà hai cố nghệ nhân sáng tác nhiều nhất là Phạm Văn Kiêm và Đoàn Đức Đan (16 bài trong tổng số 45 bài văn chầu, chiếm 35,6%). Các cố nghệ nhân kế thừa lối viết cổ, có thượng tùy hạ tiếp nghĩa là vần của câu sau phải bắt với vần của câu trước, trên thể thơ lục bát hoặc song thất lục bát, kể về cuộc đời, công lao của vị thánh dựa trên những truyền thuyết ở địa phương. Nhiều bản văn ra đời như văn Chầu Thác Bờ, Nữ tướng Bát Nàn, Chầu Mười Đồng Mỏ, Hoàng Chín Cờn Môn, Cô Cam Đường, Cô Ba Bông, Cô Ba Tây Hồ, Cô Bé Đông Cuông v.v. đã đáp ứng nhu cầu của giới đồng bóng. Kế thừa lối viết cổ, không đưa hơi thở của cuộc sống thế kỷ XX vào lời ca, người thưởng thức không phân biệt được đâu là văn cổ, đâu là văn mới, đó chính là điểm thành công của những bản văn chầu do hai cố nghệ nhân sáng tác.

Tóm lại, để hình thành hệ thống bài bản Hát văn hầu phong phú và đa dạng như ngày nay, chúng ta biết đó là cả một quá trình. Qua những cuốn sách ghi lời ca Hát văn bằng chữ Hán-Nôm, chúng ta thấy số lượng những bản văn chầu nửa đầu thế kỷ XX không nhiều. Ngoại trừ hàng Quan có đầy đủ bản văn riêng cho từng vị, thì từ hàng Chầu trở xuống chỉ những vị thánh thường hay giáng đồng, tiêu biểu cho từng hàng mới có bản văn riêng, thậm chí hàng Cậu không có bản văn nào. Hàng Chầu với bản văn về Chầu đệ nhị, Chầu đệ tứ; hàng ông Hoàng với bản văn về Hoàng Bảy, Hoàng Mười; hàng Cô với văn về Cô Đôi, Cô Chín. Mặc dù không có đầy đủ bản văn riêng cho từng vị thánh, nhưng cung văn có thể trích ra hát từ bản văn tổng của từng hàng. Từ nửa sau thế kỷ XX, cùng với việc bổ sung các vị thánh địa phương vào điện thờ của tín ngưỡng Tứ phủ, số lượng bài bản Hát văn hầu không đứng yên mà tiếp tục được gia tăng. Để hầu những vị thánh trên cần phải có bản văn riêng cho từng vị. Từ khoảng những năm 70 của thế kỷ XX, một số bài Hát văn đã được ghi tên tác giả, trong đó cố nghệ nhân Phạm Văn Kiêm và Đoàn Đức Đan đã để lại cho hậu thế nhiều bản văn có giá trị. Như vậy, xu hướng phát triển của hệ thống bản văn chầu cũng thể hiện xu hướng phát triển của tín ngưỡng, đó là không dừng lại mà luôn bổ sung, tiếp thu những yếu tố mới, không đóng mà luôn mở, tạo nên sự phong phú và đa dạng.

____________________________________________________________

[1]. Giấy dó là loại giấy được sản xuất từ vỏ cây dó. Giấy dó thường dùng để vẽ tranh dân gian hoặc viết chữ Hán-Nôm. Ưu điểm nổi bật của loại giấy này là độ bền theo thời gian.

[2]. Phỏng vấn nghệ nhân Hoàng Trọng Kha tại nhà riêng ngày 24 tháng 4 năm 2014.

[3]. Phỏng vấn cung văn Hà Cân tại nhà riêng tối ngày 30 tháng 4 năm 2014.

[4]. Phỏng vấn nghệ nhân Hoàng Trọng Kha tại nhà riêng ngày 15 tháng 6 năm 2006.

[5]. Phỏng vấn nghệ nhân Lê Bá Cao tại nhà riêng ngày 13 tháng 1 năm 2013.

[6]. Ngô Đức Thịnh (2010), Đạo Mẫu Việt Nam, Nxb Tôn giáo, trang 608.

[7]. Nghi lễ Hầu bóng còn được gọi là Lên đồng.

(Nguồn: http://www.vienamnhac.vn)

Tác giả: Hồ Thị Hồng Dung

Sức sống di sản Bài Chòi

UBND tỉnh Bình Định vừa phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức lễ đón bằng UNESCO công nhận nghệ thuật Bài Chòi Trung bộ Việt Nam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây không chỉ là tin vui của 9 tỉnh miền Trung có nghệ thuật Bài Chòi, mà còn là cơ hội để chính quyền và cộng đồng chung sức bảo tồn, phát huy nghệ thuật Bài Chòi, làm phong phú hơn đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.

Sức sống di sản Bài Chòi
Bài Chòi được trình diễn ở phố đi bộ tại Hội An, Quảng Nam, thu hút đông đảo du khách. Ảnh: Thanh Thuận

Di sản độc đáo của cư dân các tỉnh Trung bộ

Bài Chòi là một trò chơi dân gian, xuất hiện cách đây khoảng 300 – 400 năm, mang hơi thở cuộc sống của cộng đồng dân cư các tỉnh Trung bộ (từ Quảng Bình vào đến Khánh Hòa) thường được tổ chức vào dịp Tết Nguyên đán hay lễ hội truyền thống. Người dân các tỉnh Trung bộ đều ưa chuộng loại hình nghệ thuật này. Bài Chòi lưu giữ bản sắc của cư dân bản địa với những giá trị văn độc đáo và sức sống mạnh mẽ được cộng đồng cư dân Trung bộ gìn giữ bao đời nay.

Từ trò chơi dân gian, nói tiếng nói của dân gian, chủ yếu phục vụ tầng lớp nhân dân lao động và được chính người dân kế thừa và phát triển thành nghệ thuật, Bài Chòi trở thành một loại hình sân khấu ca kịch dân gian đặc sắc của khu vực miền Trung. Trải qua mấy trăm năm, lúc thăng, lúc trầm, nhưng nghệ thuật Bài Chòi như mạch nước ngầm, luôn hiện diện trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân các tỉnh khu vực Trung bộ.

Ông tổ của Bài Chòi là nhà văn hóa Đào Duy Từ (1571 – 1634). Ông còn là nhà văn hóa, quân sự kiệt xuất dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Ông đã phát triển Bài Chòi từ kiểu “hát ống” của những người canh rẫy.

Sử sách còn ghi, phần nhiều thời gian Đào Duy Từ ở đất Tùng Châu, tức huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định ngày nay. Ông đã tổ chức để dân khai khẩn, sản xuất, chỉ huy đào sông Đào kết nối từ sông Lại Giang ra tận Tam Quan. Trong quá trình khẩn hoang, việc trồng trọt thường bị thú rừng lấn phá. Người nông dân thường dựng những chòi cao hơn 2m, vững chắc, kèm dàn âm thanh (trống, mõ, phèng la) để trấn áp, xua đuổi thú hoang. Mỗi khi có thú rừng thì khua trống, gõ mõ để thú rừng hoảng loạn, tháo chạy.

Khi nhàn rỗi, để khuây khỏa, người dân chế ra hai ống tre căng dây và bịt một đầu bằng da ếch để làm ống loa nói chuyện với nhau từ chòi này sang chòi khác, hát đối đáp qua những câu ca dao, tạo thành loại hình “hát ống”.

Ông Đào Duy Từ đã phát triển từ “hát ống” thành trò chơi “đánh bài chòi” với những lá bài và lập thành hệ thống quy củ để giải trí. Qua đó không chỉ tạo không khí vui tươi cho người dân, mà còn là kinh nghiệm răn đời, dạy người.

Bài Chòi có hai hình thức chính: Chơi Bài chòi và trình diễn Bài Chòi. Chơi Bài Chòi liên quan đến một trò chơi thẻ bài trong chòi tre vào Tết Nguyên đán.

Trong nghệ thuật Bài Chòi, thơ ca, âm nhạc, ngôn ngữ, phong tục, lối sống được chuyển tải một cách mộc mạc, tự nhiên, tạo sức hấp dẫn với công chúng. Rất nhiều tục ngữ, ca dao, bài vè… được biến tấu, diễn tả sinh động mọi cảnh đời, từ tình yêu đôi lứa đến những khúc mắc nhân tình thế thái, tạo nên sự riêng biệt của Bài Chòi. Những người lưu giữ và thực hành nghệ thuật Bài Chòi là các anh chị Hiệu, những nghệ nhân biểu diễn Bài Chòi đơn lẻ và những nghệ nhân làm thẻ bài.

Mở ra cơ hội mới cho địa phương có Bài Chòi

Những năm gần đây, phong trào chơi Bài Chòi, hội Bài Chòi ở khu vực miền Trung diễn ra quanh năm, từ thành thị đến nông thôn, tạo không khí vui tươi, lành mạnh.

Khi nghệ thuật Bài Chòi chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại đã mở ra cơ hội mới cho chính quyền và người dân phát huy nhiều hơn nữa giá trị môn nghệ thuật dân gian này trong đời sống văn hóa tinh thần.

Tại tỉnh Bình Định, việc bảo tồn, gìn giữ nghệ thuật Bài Chòi được tỉnh đặt ra từ lâu như: Nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, bảo tồn những giá trị tiêu biểu của hát bội, Bài Chòi; truyền dạy nghệ thuật hát Bội, Bài Chòi trong cộng đồng và trường học…

Bình Định đang thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nghệ thuật Bài Chòi. Ngoài các đơn vị, đoàn hát Bài Chòi chuyên nghiệp, Bình Định có nhiều câu lạc bộ, điểm hát Bài Chòi dân gian thường xuyên hoạt động. Đặc biệt, tại huyện Hoài Nhơn – nơi được coi là sản sinh ra nghệ thuật đánh Bài Chòi cổ, cũng là huyện duy nhất ở Bình Định có câu lạc bộ dân ca Bài Chòi ở cả 17 xã, thị trấn và hiện đang xúc tiến thành lập câu lạc bộ Bài Chòi cấp huyện.

Mấy năm gần đây, nghệ thuật Bài Chòi không những phục vụ nhân dân, mà còn thu hút nhiều du khách đến tham gia, góp phần phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập cho cộng đồng. Tại một số thành phố lớn thuộc của vùng Trung bộ, Bài Chòi đã được chính quyền đưa xuống phố, níu chân du khách thưởng thức và tham gia chơi cùng.

Ông Trịnh Công Sơn, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Bài Chòi thuộc Trung tâm Văn hóa Đà Nẵng cho biết, từ một thú chơi dân dã, chơi Bài Chòi đã trở thành một sản phẩm du lịch độc đáo. Hiện nay, khách du lịch trong và ngoài nước tham gia chơi Bài Chòi tại Đà Nẵng ngày càng đông. Chủ trương đưa bài chòi xuống phố là ý tưởng hay, đưa những cái đẹp của nghệ thuật dân gian đến gần với người xem hơn.

Còn ở Hội An – thành phố du lịch nổi tiếng của tỉnh Quảng Nam, để gìn giữ nét độc đáo của nghệ thuật Bài Chòi, từ năm 1998, Trung tâm Văn hóa – Thể thao thành phố Hội An đã mở nhiều lớp đào tạo nhạc công, diễn viên hát dân ca, Bài Chòi. Những năm sau đó, thành phố Hội An đã đưa dân ca, Bài Chòi vào trường học, mở nhiều lớp dạy hát dân ca, Bài Chòi miễn phí cho trẻ em.

Thanh Thuận
Theo baomoi.com

Nghệ thuật truyền thống và khán giả trẻ

Xem, nghe giải thích, tìm hiểu về nghệ thuật truyền thống là một phần của chương trình học tập trong nhà trường. Các màn diễn, nhân vật của nghệ thuật dân gian giúp người nghe có được cảm thụ văn học tốt hơn, nhận diện, cảm thụ nghệ thuật chuẩn xác hơn… Nhưng, cách thức giảng dạy sân khấu truyền thống cho các em thiếu nhi, học sinh, sinh viên luôn đòi hỏi phải có phương pháp riêng. Đề cập vấn đề “Nghệ thuật Chèo truyền thống với khán giả trẻ”, mời quý vị và các bạn cùng theo dõi cuộc trò chuyện giữa phóng viên chương trình với nghệ sỹ Trần Thái Sơn, diễn viên Nhà hát Chèo Việt Nam

Sức sống bền bỉ của tuồng

Mỗi lần được đứng trên sân khấu biểu diễn trước hàng chục, hàng trăm khán giả chăm chú lắng nghe, những nghệ sĩ trót mang nghiệp với tuồng như được tiếp thêm sức mạnh.

Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử, tuồng vẫn có một vị thế riêng trong dòng chảy văn hóa xứ Quảng. TRONG ẢNH: Một cảnh trong vở tuồng Trần Bình Trọng do Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh biểu diễn. (Ảnh do Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh cung cấp)

Làng Khánh Đức được dân xứ Thanh-Nghệ lập giữa đầu thế kỷ XIX khi vua Minh Mạng cho cắt bốn tổng của huyện Duy Xuyên và một tổng của huyện Lễ Dương (nay là huyện Thăng Bình) lập nên huyện Quế Sơn. Trong khoảng thời gian này, một nhóm nghệ sĩ hát bội từ kinh thành Huế đưa vợ con băng qua vùng đất Phú Xuân vào lập ngôi làng nhỏ trên vùng đất Khánh Đức, đặt tên Đức Giáo và lấy xướng ca làm nghề.1. Tư liệu về nghệ thuật Tuồng xứ Quảng ghi rõ, giai đoạn đầu đến cuối thế kỷ XIX, trên vùng đất Quảng Nam hình thành 2 gánh hát Đức Giáo (nay thuộc xã Quế Châu, huyện Quế Sơn) và Khánh Thọ (nay là TP. Tam Kỳ); họ lưu diễn khắp nơi, từ làng trên xóm dưới, che bạt làm rạp giữa bãi làng.

Gánh Đức Giáo đi diễn khắp nơi, thỉnh thoảng được mời vào cung đình phục vụ nhà vua. Những lúc hưng thịnh, gánh chia làm 2 đội thay nhau đi biểu diễn. Nay, vùng Quế Châu,  các cụ cao niên vẫn ngâm nga câu xướng “Hữu đinh vô điền, xuất ca chi các huyện hạt, dĩ thu ngân sung nạp ngân đinh” (Có đinh mà không có ruộng, đi hát khắp các huyện hạt lấy tiền để nạp thuế đinh) hay “Đức Giáo vô địa lập chùy dĩ xướng ca vi nghệ” (Làng Đức Giáo không mảnh đất cắm dùi lấy xướng ca làm nghề) để nhắc lại một thời quá khứ vàng son của gánh hát dân gian này.

Trong khi đó, gánh hát Khánh Thọ tương truyền có từ thời Gia Long (1802-1820) do một nhóm ăn mày lập gánh mua vui rồi thành nghiệp, được xem là gánh hát của người nghèo, được yêu thích bởi sự dân dã, gần gũi với đời sống thường nhật của người dân.

Vào thời huy hoàng nhất, gánh Khánh Thọ được biết đến với những tên tuổi như ông Giờ, ông Thuyền, ông Thi, ông Trí, ông Nhi, ông Từ, Bảy Xiên, Tám Xẹo, Sáu Xẻ… Đặc biệt, thấy được nhu cầu thưởng thức của khán giả, nhiều người như ông Nhưng Ấm, ông Nhồng đã tách ra lập gánh hát riêng.

Cùng với sự hưng thịnh của Đức Giáo và Khánh Thọ, khoảng đầu thế kỷ XX, trên khắp vùng Quảng Nam-Đà Nẵng, nhiều trường tuồng, rạp hát ra đời như Chú Châu (Hội An), Bàu Toa (xã Đại Thanh, huyện Đại Lộc), Trường Tuồng Vĩnh Điện (thị trấn Vĩnh Điện, huyện Điện Bàn), Miếu Bông (xã Hòa Phước, huyện Hòa Vang)…

Lúc này, nghệ thuật tuồng có sự chuyển biến mạnh mẽ, bên cạnh nghệ thuật biểu diễn dân gian, sân khấu quần chúng đã xuất hiện thêm loại hình sân khấu giải trí, mua vui cho những khán giả có điều kiện về kinh tế.

Một thời gian dài, diễn tuồng đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của người dân xứ Quảng. Sân bãi đầu làng, cuối xóm mỗi khi có đoàn tuồng về biểu diễn thường chật kín người xem. Thế nhưng, như nhiều loại hình giải trí khác, theo dòng lịch sử phát triển của dân tộc, nghệ thuật tuồng cũng bị ảnh hưởng, không chỉ mang nội dung truyền thống mà có xu hướng đổi mới, mở ra giai đoạn tuồng tiểu thuyết, tuồng xuân nữ, tuồng kiếm hiệp, tiếp thu những giá trị của nghệ thuật cải lương miền Nam để làm phong phú hình thức diễn tuồng. Cùng với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, nghệ sĩ tuồng đã có những vở diễn khai thác đề tài yêu nước, tiêu biểu như Kiều Quốc Sĩ, Anh Lan, chị Lan của soạn giả Tống Phước Phổ…

2. Ngày 8-6-2015, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Tuồng xứ Quảng ở Đà Nẵng là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, là món quà quý giá với nhiều thế hệ nghệ sĩ tuồng đã và đang công tác tại Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh.

Tiền thân là Đoàn tuồng Giải phóng Quảng Nam, thành lập ngày 21-7-1967 tại căn cứ kháng chiến khu V, Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh trải qua bề dày gần 50 năm, dàn dựng, biểu diễn khoảng 100 vở các thể loại, nội dung khác nhau từ kinh kịch, dã sử, dân gian, truyền thuyết lịch sử, truyền thống yêu nước đến đề tài hiện đại, phóng tác từ kịch bản nước ngoài…

Là người được các thế hệ sau này tôn là “hậu tổ nghề Tuồng”, Nguyễn Hiển Dĩnh đã viết và soạn lại trên 20 vở tuồng như “Phong Ba Đình”, “Lục Vân Tiên”, “Giáp kén xã nhộng”, “Lý Mã Hiền”, “Võ Hùng Vương”… Kịch tuồng của Nguyễn Hiển Dĩnh mang lời văn, lời thơ giản dị, sử dụng ca dao tục ngữ cho lời thoại ngắn gọn, súc tích.

Trọn một đời cống hiến cho nghệ thuật, Nguyễn Hiển Dĩnh đã đào tạo nhiều học trò xuất sắc, trong đó có Nguyễn Nho Túy, Chánh Đệ, Chánh Phẩm, Văn Phước Khôi, Nguyễn Lai – được triều Nguyễn phong là Ngũ Mỹ, là 5 người đóng tuồng giỏi nhất của xứ Quảng thời bấy giờ.

Bén duyên với tuồng và gặp người bạn đời của mình trong những chuyến lưu diễn, đến nay vợ chồng NSND Thu Nhân, NSƯT Cao Đình Liên dường như đã đi trọn một đời tuồng.

Với Thu Nhân, bà làm quen với môn nghệ thuật này từ năm 1969 rồi thấm dần vào máu thịt lúc nào không hay. Ngày mới vào nghề, bà ghiền tuồng đến nỗi nhiều đêm về nằm mơ thấy mình chuẩn bị diễn mà chưa thay quần áo, đến lớp học mà chưa kịp hóa trang, luống cuống sợ thầy mắng mà tỉnh ngủ.

Thời gian khó, những thế hệ nghệ sĩ đi trước như bà thường xuyên có những chuyến lưu diễn về vùng sâu vùng xa. Ban đêm rét lạnh, quần áo mang theo không đủ ấm, kê bàn ghế làm giường, khó khăn đủ bề nhưng chẳng bao giờ bà có suy nghĩ sẽ bỏ tuồng. Bà bảo, tuồng như liều thuốc mê, học tới đâu mê tới đó nên dù khó khăn cũng quyết ở lại với tuồng.

Một số nghệ sĩ ở Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh kể rằng, khi còn sống, nghệ nhân Hồ Hữu Có đã truyền dạy cho bao thế hệ nghệ sĩ hầu hết các động tác trong vũ đạo tuồng. Ông từng chia sẻ, trong tuồng, nếu đem so sánh giữa hát và điệu bộ thì kẻ tám lạng, người nửa cân. Ví như trong vở tuồng “Giáp thập điều” dịch từ kinh kịch Trung Quốc, nhân vật Hoàng Phi Hổ khi quyết định bỏ vua Trụ tàn ác ra đi mang theo tâm trạng đi cũng dở, ở không đành.

Nhân vật nếu chỉ đọc lời thoại “Lụy san san nửa đi nửa ở” mà thiếu những vũ đạo biểu hiện sự giằng co trong suy nghĩ, những cái khoát tay dứt khoát, những động tác “khán” mạnh mẽ thì khó thể hiện được nội tâm nhân vật. Diễn tuồng khó là vậy nên không phải ai bước vào nghề cũng nổi tiếng và để lại ấn tượng trong lòng khán giả.

3. Cùng với niềm vui tuồng được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, thời gian qua, Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh tiếp tục đẩy mạnh việc đưa tuồng xuống phố, đến các trường học trên địa bàn thành phố Đà Nẵng với mong muốn loại hình nghệ thuật này tiếp cận với nhiều đối tượng khán giả. NSƯT Phạm Thanh Tỵ, nguyên Trưởng phòng Nghiệp vụ Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh cho biết, mỗi năm ngoài diễn tuồng tại nhà hát từ 30 đến 40 buổi, đoàn còn tổ chức những chuyến lưu diễn theo hợp đồng hội làng, phục vụ lãnh đạo thành phố đón tiếp các đoàn khách…

Cũng theo NSƯT Thanh Tỵ, để khán giả, đặc biệt là khán giả trẻ hiểu và yêu nghệ thuật tuồng không phải chuyện một sớm một chiều hoặc chỉ vài buổi tiếp xúc là xong. Bên cạnh việc đào tạo đội ngũ nghệ sĩ kế cận, người làm công tác quản lý văn hóa cần phải hình thành những thế hệ khán giả yêu sân khấu dân gian. Có như vậy tuồng mới thật sự tìm lại được chỗ đứng trong lòng dân chúng.

Trong khi khán giả Đà Nẵng dần được tiếp cận nhiều hơn với nghệ thuật tuồng thì các làng, xã ở tỉnh Quảng Nam cũng thường xuyên tìm đến Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh kèm theo lời mời diễn. Đơn cử mới đây, vợ chồng ông Đinh Hoàng Nghị, Trưởng ban đi rước ở làng Phước Thượng, xã Quế Thuận, huyện Quế Sơn (Quảng Nam) đã đi một quãng đường dài gần 100 km ra Đà Nẵng mời đoàn tuồng về diễn trong Lễ hội mục đồng sắp diễn ra tại địa phương.

Có thể nói, mỗi lần được đứng trên sân khấu biểu diễn trước hàng chục, hàng trăm khán giả chăm chú lắng nghe đã như tiếp thêm sức mạnh cho những nghệ sĩ trót mang nghiệp với tuồng.

Nguồn: Theo Đà Nẵng Online

 

Lùm xùm danh hiệu NSND, NSƯT: Tiết lộ những “thâm cung bí sử”

Đã có không ít nghệ sĩ bị trượt NSƯT, NSND chỉ vì “vạ miệng”, kiêu căng, cái tôi lớn, nhưng cũng có trường hợp chính hội đồng xét tặng danh hiệu cũng vi phạm nguyên tắc nhưng đợt sau vẫn tiếp tục được “tín nhiệm”.

 

 

Chuyện hi hữu: Thành viên hội đồng bị “gài bẫy”

Quá trình xét tặng danh hiệu NSƯT, NSND trải qua 4 cấp, cấp thấp nhất cũng 5-7 người, cấp cao nhất là Hội đồng quốc gia cỡ chừng 30 thành viên của nhiều lĩnh vực.

Để hiểu hết về các lĩnh vực khác là điều không phải thành viên nào cũng làm được.

Thế nên, chuyện sai sót là không tránh khỏi. Câu hỏi đặt ra, tại sao nghệ sĩ có sai sót, thậm chí là vạ miệng cũng bị đưa lên bàn cân đợt này qua đợt khác, nhưng chuyện hội đồng làm sai lại “chìm xuồng”?

Trong câu chuyện trao đổi với NSND Bùi Đắc Sừ, thành viên hội đồng cấp Bộ và cấp Nhà nước, ông chia sẻ rằng, từng nhiều lần ngồi ghế hội đồng, ông luôn làm đúng theo tinh thần trách nhiệm được giao, không tư lợi, không làm những điều khuất tất để mang tiếng và ngượng với đồng nghiệp.

Tuy nhiên, có một lần mà đến giờ, không chỉ ông mà các thành viên hội đồng khác cũng cảm thấy ân hận.

NSND Bùi Đắc Sừ trao đổi với phóng viên xung quanh câu chuyện xét tặng danh hiệu

Đó là trường hợp của một họa sĩ sân khấu. Theo đánh giá của ông Bùi Đắc Sừ chỉ người này chỉ xứng NSƯT, dù có tên trong danh sách xét tặng NSND.

Các thành viên trong hội đồng cũng đồng ý như vậy. Nhưng sau đó, nghệ sĩ này đến từng nhà của các thành viên để “nói khó” rằng, em biết mình kém, nhưng em chỉ xin anh một phiếu để khi công bố kết quả cho đỡ ngượng.

Ai dè, khi hội đồng công bố kết quả, ông này có  tất cả phiếu thuận của hội đồng. Lúc này, những người “cầm cân nẩy mực” mới té ngửa là hóa ra, ai cũng được nghệ sĩ này đến nhà “nói khó” câu đó.

Cuối cùng thì người này vẫn được phong NSND. Cứ cho là vì “sự đã rồi” khi công bố kết quả, nhưng theo quy chế, các trường hợp được hội đồng chuyên ngành thông qua và trình lên thì vẫn còn một hội đồng cuối cùng là cấp quốc gia.

Hội đồng này có sự đại diện nhiều lĩnh vực, cấp lãnh đạo trong nghành văn hóa để rà soát lại các trường hợp. Họ vẫn có quyền gạt đi các trường hợp không xứng đáng (nhưng không được đề xuất thêm).

Vậy thì sao trường hợp “đi đêm”, ăn gian này vẫn không bị xét lại? Các thành viên hội đồng vì sao không ai dám nói ra sai sót “bị gài” này?

Vi phạm quy chế, vi phạm đạo đức: Người gạt, người được bỏ qua

Tại đợt xét duyệt lần này, có một số trường hợp nghệ sĩ được đánh giá là “cánh chim đầu đàn” của ngành nhưng khi ra hội đồng lại gặp phải nhận xét rất gây tranh cãi là “vi phạm quy chế”, “có vấn đề về đạo đức”.

Như nghệ sĩ múa Tuyết Minh – chuyên viên phòng nghệ thuật- Cục nghệ thuật biểu diễn.

Trong quá trình tiếp xúc với các thành viên hội đồng, các nghệ sĩ, chúng tôi đều nhận được các đánh giá khen ngợi tài năng dành cho nghệ sĩ Tuyết Minh.

12 huy chương vàng với nghệ sĩ múa có thể được coi là một kỷ lục, bởi với ngành múa rất ít hội diễn và đạt huy chương vàng là vô cùng khó.

Số lượng huy chương cho các đoàn cũng luôn bị khống chế là không vượt quá 30%. Vậy nhưng, trong 17 năm gắn bó với ngành múa chuyên nghiệp, nghệ sĩ Tuyết Minh đã liên tục gặt hái huy chương.

Thế nhưng, danh hiệu NSƯT tưởng đơn giản thế mà sao xa vời với chị đến vậy?

 

 

Nghệ sĩ múa Tuyết Minh nhiều lần rơi nước mắt ấm ức khi tường trình sự việc với phóng viên

Trong cuộc tiếp xúc với báo chí mới đây, nghệ sĩ Tuyết Minh không dưới 3 lần nói trong tức tưởi vì hội đồng cấp cơ sở là Cục nghệ thuật biểu diễn đã nói không đúng về mình trên báo chí.

Nói chị vi phạm quy chế khi là người của Cục mà lại thành lập đoàn múa tư nhân.

Nhưng trong văn bản Số 12/QĐ-GMVN ký ngày 22/12/2010 mà nghệ sĩ này cung cấp cho báo chí thì được biết, Quyết định thành lập Đoàn múa Khám Phá hiện thuộc Công ty TNHH Dịch vụ truyền thông Gương mặt Việt Nam, trên cơ sở tiếp nhận Đoàn múa Khám Phá do Tuyết Minh sáng lập năm 2005.

Đoàn múa Khám Phá được sử dụng trụ sở, tư cách pháp nhân, con dấu và tài khoản của công ty trong các giao dịch với cơ quan, tổ chức bên ngoài”.

Theo đó, ngay sau quyết định thành lập Đoàn múa Khám Phá, nghệ sĩ Tuyết Minh từ vai trò sáng lập đoàn đã xin đứng ở vị trí cố vấn để không vi phạm quy chế.

Người đứng đầu đoàn múa hiện nay được ghi trong quyết định thành lập là bà Đoàn Khánh Diệp chứ không phải nghệ sĩ Tuyết Minh.

Ngoài vấn đề này, tại Hội đồng cấp Nhà nước, nghệ sĩ Tuyết Minh bị trượt và được hội đồng này trả lời là do vi phạm quy chế, có vấn đề về đạo đức.

Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi được biết, nghệ sĩ Tuyết Minh cũng từng xảy ra một hai lần va chạm về lời nói với lãnh đạo, nhưng để thành văn bản hay quyết định vi phạm thì chị chưa nhận được.

“Án tại hồ sơ”, nhưng trong khi không có bằng chứng cụ thể, xác thực, chỉ căn cứ vào lời nói mà các thành viên hội đồng vẫn đồng thuận không bỏ phiếu cho nghệ sĩ Tuyết Minh.

 

 

Kết luận của Nhà hát chèo Việt Nam về những sai sót của ông Bùi Đắc Sừ khi ông còn làm trưởng đoàn

Trong khi đó, trường hợp của ông Bùi Đắc Sừ, vi phạm quy chế của cơ quan khi ông còn làm trưởng đoàn lại vẫn được phong NSND đợt 6/2007.

Bản thân ông Sừ cũng thừa nhận với phóng viên, ông có làm sai nguyên tắc chi tiêu của đoàn khi trích 10% tiền vở diễn cho địa phương trong khi chưa có quy định.

Sau đó, ông bỏ chức trưởng đoàn và sang phòng nghệ thuật làm việc là do “tự ái”.

Dù vậy, ông Sừ vẫn được tín nhiệm giữ nhiều trọng trách tại Nhà hát chèo VN, nhận các giải thưởng lớn của nhà nước trao tặng.

Và mới đây nhất, do không có văn bản giấy tớ chứng minh ông Sừ tham ô công quỹ như lời nghệ sĩ Minh Thu tố cáo (văn bản chỉ ghi ông Sừ làm sai nguyên tắc chi tiêu), một tờ báo đã phải đính chính.

Vậy thì với trường hợp của nghệ sĩ Tuyết Minh, khi không có văn bản vi vi phạm quy chế làm việc của cơ quan, sao vẫn được coi là bằng chứng để trượt danh hiệu?

Có nghệ sĩ ví von: Nghệ sĩ Minh Thu phát biểu trên facebook cá nhân rằng, “còn Bùi Đắc Sừ ngồi ghế hội đồng thì ngành chèo còn thiệt”.

Vậy sao không thấy ông “tự ái” như khi rời ghế trưởng đoàn sang làm chuyên viên? Vẫn kiên trì ngồi ghế hội đồng hết mùa này đến mùa khác?

Trượt NSND chỉ vì “ghét cái thái độ”

Một thành viên hội đồng nghệ thuật năm nay (chúng tôi xin phép giấu tên) tiết lộ lý do khiến cố nghệ sĩ Nguyễn Anh Dũng bị trượt danh hiệu NSND từ đợt 7/2011.

Người này kể rằng: Khi còn làm Giám đốc Nhà hát kịch Việt Nam, nghệ sĩ Anh Dũng được mời làm thành viên hội đồng xét duyệt.

Có một thực tế là không phải thành viên hội đồng nào cũng có khả năng bao quát hết các lĩnh vực sân khấu khác, không biết hết tài năng của từng diễn viên được xét, nhất là lĩnh vực phim ảnh.

Nhưng nghệ sĩ Anh Dũng do đóng nhiều phim nên cũng quen mặt hết các diễn viên. Vì vậy, đến hồ sơ nào ông cũng nói “cậu này từng là học trò của tôi ấy mà”.

 

Cố nghệ sĩ Anh Dũng từng bị trượt danh hiệu mà theo một thành viên nghệ thuật là chỉ vì ghét thái độ

Vậy là các ông hội đồng khác thấy “ngứa mắt”, cho như thế là kiêu căng. Khi nghệ sĩ Anh Dũng được xét NSND thì các thành viên không bỏ phiếu vì “ghét cái thái độ” chứ không phải vì vấn đề tài năng hay đạo đức.

 Từ chuyện cảm tính này mà khi nghệ sĩ này qua đời, ngành văn hóa đã phải truy tặng danh hiệu khi nghệ sĩ Anh Dũng đã qua đời.

Câu chuyện gây nuối tiếc và cả trách cứ khi đã chậm trễ trong việc vinh danh, làm giảm đi ý nghĩa cua danh hiệu cao quý.

Hay như có trường hợp nghệ sĩ từng mang dao đến dọa lãnh đạo ngành mình vì bất đồng trong công việc, phải điều chuyển sang đơn vị khác. Nhưng tại đây, nghệ sĩ này vẫn được được xét các danh hiệu cao nhất.

Nghệ sĩ Minh Thu được hầu hết người trong nghề đánh giá là con chim đầu đàn của ngành chèo. Tuy nhiên, ông Bùi Đắc Sừ lại cho rằng, bà diễn xạo, hình thức không phù hợp nên chỉ xứng là NSUT

NSƯT Minh Thu cũng được những người trong giới đánh giá là cánh chim đầu đàn của ngành chèo.

Là con gái của NSND Mạnh Tuấn- người được mệnh danh là “vua hề làng chèo”, nghệ sĩ Minh Thu đã thừa hưởng  nhiều tinh túy của cha mình để lại cho ngành chèo.

Bà cùng với nghệ sĩ Thanh Ngoan, Xuân Hinh, Khắc Tư, được đánh giá điển hình của ngành chèo, được giới trong nghề nể phục về tài năng.

Năm 1997, bà được phong NSƯT, nhưng đã 18 năm trôi qua, dù đã về hưu nhưng bà vẫn miệt mài truyền thụ các vai chèo mẫu cho thế hệ trẻ, vẫn gặt hái huy chương.

Sau NSƯT, bà có thêm 2 HCV nhưng vẫn không được xét NSND. Lý do được đưa ra là “diễn xạo”, “ngoại hình không phù hợp”.

Nghệ sĩ Xuân Hinh cũng được đa số người dân trong nghề đánh giá là quá xứng đáng, để lại dấu ấn số 1 với các vai hề chèo.

Anh không chỉ hát chèo mà còn hát văn, hát xẩm, đóng góp vào việc bảo tồn nghệ thuật truyền thống khi bỏ kinh phí để sưu tầm, hoàn thành DVD 8 trích đoạn chèo tiêu biểu như: Hề cu Sứt, Thầy bói đi chợ, Phù thủy sợ ma, Hề mồi đố đá, Lý trưởng mẹ Đốp, Hề gậy theo thầy, Thị Màu lên chùa, Thầy đồ dạy học.

Với những đóng góp này, anh được vinh danh trong lễ trao giải San Francisco Award 2013 do một tổ chức của Mỹ trao tặng.

Nghệ sĩ Xuân Hinh được một tổ chức của Mỹ vinh danh vì có nhiều đóng góp trong việc bảo tồn nghệ thuật truyền thống

Nghệ sĩ Xuân Hinh được một tổ chức của Mỹ vinh danh vì có nhiều đóng góp trong việc bảo tồn nghệ thuật truyền thống

Lý do anh không được xét NSND đợt này là bởi không có huy chương. Thực ra, đã từ lâu, Xuân Hinh tự rút lui khỏi các hội diễn vì không còn tin tưởng.

Nhiều nghệ sĩ tên tuổi được vinh danh nhưng vẫn có không ít trường hợp tài năng không có mà vẫn được trao huy chương để có đủ thành tích nhận danh hiệu.

Vì cảm tính, chỉ “nghe nói” nên mới có chuyện, nghệ sĩ tài năng Diễm Lộc của ngành chèo đã 76 tuổi vẫn còn trong danh sách xét.

Có thành viên hội đồng ngỡ ngàng cứ nghĩ bà phải được phong NSND từ lâu rồi mà sao vẫn “ngồi cùng mâm” với thế hệ học trò trong danh sách.

Lý do cũng là bị “soi” về đời sống cá nhân của bà khi còn trẻ. Sau lần bị trượt, bà tự ái không làm đơn nữa, chỉ miệt mài với việc giảng dạy, truyền thụ kiến thức trong mấy chục năm qua cho thế hệ trẻ đến tận bây giờ.

Lần này là do các con bà thấy tiếc cho mẹ mà làm đơn xin xét. Thật đáng mừng là trong danh sách NSND được thông qua đợt này đã có tên nghệ sĩ Diễm Lộc.

Và còn nhiều nữa những cái tên “cây đa cây đề” của sân khấu bị đánh trượt chỉ vì những lý do thiếu cơ sở, quá soi xét vào cá tính, cái tôi của nghệ sĩ mà phủ nhận những công lao và tài năng được đánh giá là chưa có người thứ 2 thay thế, như Minh Thu, Thanh Ngoan, Xuân Hinh…

Theo: Giadinh.net.vn

Cải lương… xưa và nay

Những thập niên 60 và 70 (thế kỷ XX) có lẽ là thời hoàng kim của cải lương. Lúc bấy giờ cải lương là món ăn tinh thần được người dân yêu chuộng nhất, vượt trội hơn cả ca nhạc và thoại kịch. Vé chợ đen luôn có mặt ở tại cửa rạp với giá có khi gấp đôi mà người xem vẫn chấp nhận. Hiện tượng “mua dàn” thường xảy ra, vì người “mua dàn” cầm chắc tiền lời trong tay. Câu hỏi đặt ra là: Tại sao cải lương thời ấy lại được yêu chuộng như vậy?

 

Các thế hệ nghệ sĩ cải lương.

* Thứ nhất là, đào kép có thực tài, diễn xuất nhập vai, ca hay, múa giỏi, khá gần gũi với quần chúng, được quần chúng ái mộ và đã phong cho họ những mỹ danh xứng đáng với tài năng của họ.

Đó là “Đệ nhất danh ca miền Nam” cho Út Trà Ôn; “Sầu nữ” cho Út Bạch Lan; “Cải lương chi bảo” cho Bạch Tuyết; “Thanh sắc vẹn toàn” cho Thanh Nga; “Tiếng ca huyền diệu” cho Minh Cảnh…

* Thứ hai là, nhờ nhiều soạn giả tài hoa, mang nhiều tâm huyết, đã cho ra nhiều kịch bản (vở tuồng) xuất sắc, nội dung khai phóng, gây ấn tượng mạnh cho người xem.

Đó là Hà Triều Hoa Phượng với Tấm lòng của biển, Nửa đời hương phấn, Tuyệt tình ca (viết chung với Ngọc Điệp)…. và nhất là Con gái chị Hằng. Vở này đã diễn suốt 21 đêm liên tục tại rạp Nguyễn Văn Hảo (Rạp Công Nhân ở TP. Hồ Chí Minh ngày nay). Đó là Thu An với Nắng chiều trên sông Dịch, Hai chiều ly biệt, Lá của rừng xanh. Đó là Qui Sắc với Người vợ không bao giờ cưới, Khi rừng mới sang thu… Đó là Nguyên Thảo với Tâm sự loài chim biển

Những nhân vật của những vở tuồng ấy đã “bình dân hóa” trong quảng đại quần chúng: Người ta đã gán tên những nhân vật trong vở tuồng cho những ai ngoài đời có những hoàn cảnh tương tự, như “Phà Ca” (trong Người vợ không bao giờ cưới), “Áo Vũ Cơ Hàn” (trong Tâm sự loài chim biển), “Ông Cò quận chín” (trong Tuyệt tình ca)…

Tuồng tích đã hay mà “văn chương” trong các vở tuồng cũng được các soạn giả trau chuốt kỹ càng; lại được đưa vào nhạc càng bóng bẩy, dịu êm, làm người xem (nghe) mê mệt:

“Lòng hẹn lòng, khi chia tay, như xé nát tâm hồn ai.
Trời lạnh lùng, mây cô đơn, buồn giăng khắp miền quan tái…”. (Mắt em là bể oan cừu)

Hay: “…Thì chị cũng sẽ về với em,
Để mừng ngày em xuất giá.
Cho vui lòng ba với má,
Chị cũng nở mặt nở mày với lối xóm bà con…”. (Nửa đời hương phấn)

Lại có những lời văn đẹp như một bài thơ:

“Mới đầu hôm mà tóc ta bạc gần nửa mái,
Mới đầu hôm mà rượu cạn mấy mười ly.
Mới đầu hôm mà sự thế đổi thay…”. (Thuyền ra cửa biển)

Hơn thế nữa, có những câu xứng đáng là danh ngôn:

“Thà ngu như con thiêu thân mà chết ngoài ánh sáng,
Còn hơn khôn như con chuột mà chết trong ống cống”. (Tấm lòng của biển) Chúng tôi nhớ, sau khi vai Tấn (Hữu Phước đóng), nói câu nầy thì cả rạp vỗ tay rần rần. Một ông ngồi kế bên buộc miệng: “Coi cải lương mà nghe “văn chương” không cũng đủ đồng tiền!”.

Những bài ca như vậy, đến nay đã hơn bốn mươi năm mà vẫn còn có người thuộc lòng và thường hát.
Xã hội càng phát triển thì tầm thưởng thức nghệ thuật của khán giả cũng có sự đòi hỏi cao hơn, nếu các tác giả thời nay không chịu nắm bắt điều nầy thì khó thành công; ngược lại, vô hình trung coi thường khán giả và tất nhiên sẽ bị khán giả quay lưng!

Sau năm 1975, nhất là các thập niên gần đây cải lương bị mai một dần, biểu hiện dễ thấy nhất là cảnh khán giả chen nhau mua vé ngày càng xa lạ. Tại sao vậy? Có người đổ cho khách quan với lý do chỉ vì băng đĩa quá tiện lợi và rẻ tiền nên người ta không đến rạp nữa.

Nói như vậy thì có phần thiếu thuyết phục và có ý bênh vực cho môn nghệ thuật trên đường suy tàn. Hỏi lại, dù không đến rạp, ở nhà họ vẫn coi cải lương trên tivi? Câu trả lời rất sượng sùng là… rất ít người coi! (mà người coi là những lứa tuổi già nua còn sót lại).

Tại sao thế? Như đã phân tích ở trên, cải lương lúc trước được ưa chuông là nhờ ba yếu tố: Diễn viên thiện nghệ, soạn giả tài ba và kịch bản xuất sắc.

Cải lương ngày nay, với nghệ sĩ, có người cũng có huy chương vàng nầy nọ, nhưng lối diễn và giọng ca chưa làm người xem vừa ý. Ví dụ như một nữ nghệ sĩ quá “điệu”, làm duyên làm dáng thái quá, khiến người coi phải “mắc cở giùm”; hay có một nam nghệ sĩ giọng ca eo éo như con gái, diễn xuất với chân tay cứng ngắt, diễn như vậy làm sao tồn tại với tầng lớp khán giả có tầm mức thưởng thức như hiện nay? Mới hay, huy chương là một đường, còn ca diễn đi vào lòng người mới là đích thực.

Về soạn giả và kịch bản (thường vốn đi đôi) thì rõ là một vấn đề đã bàn nhiều, song vở tuồng để lại trong lòng công chúng thì không đáng kể!

Điều cần nói thêm là, người xem cải lương ngày nay rất bực mình về câu vọng cổ đã bị soạn giả phá đi nét truyền thống, nhào nắn thành dị hình dị dạng: Ca sĩ phải nổi gân cổ “nuốt” hơn một trăm chữ trước khi “xuống hò” (câu 1). Đó là sự chế biến lập dị, làm người ca mệt, mà người nghe/xem cũng “mệt”, ngao ngán, chán chường! Các soạn giả ấy đã cố tình “làm cho lạ”, nhưng đã vô tình làm cho bản vọng cổ hết… “muồi”, vốn là sở trường của cổ nhạc.

Cải lương càng ngày càng vắng khách, kể cả những người lớn tuổi ở quê, vốn là thành phần “mê” cải lương nhất, giờ họ cũng lơ là.

Trên đây là những cảm nhận từ hàng ghế khán giả hơn là người trong nghề, vì vậy sự chủ quan sẽ không tránh khỏi. Thế nhưng, với ý thức dân tộc về một loại hình nghệ thuật – cải lương – bài viết này như tiếng lòng.

Theo: ( Kha Tiệm Ly  Ấp Bắc)

Nghệ sĩ sân khấu Ngày ấy… bây giờ

Năm 1963, sáu nghệ sĩ cùng đoạt giải Thanh Tâm là Bạch Tuyết, Mộng Tuyền, Trương Ánh Loan, Tấn Tài, Thanh Tú, Diệp Lang. Trong số đó, có thể nói NSƯT Bạch Tuyết là người vẫn còn làm nghề cho tới bây giờ.
Nhận giải năm 18 tuổi

Giải Thanh Tâm đến tay Bạch Tuyết khi chị đang hát cho đoàn Út Trà Ôn, vở Tàn một kiếp hoa, lúc vừa 18 tuổi. Một cô bé sớm mồ côi mẹ, rồi cha gửi đi học trường dòng, sống theo nền nếp của các ma sơ, rồi học trung học, được giới thiệu làm quen với những tay đàn cự phách như Ba Luông, Chân Vân, Vũy Chỗ, lân la xin hình nghệ sĩ sau mỗi đêm diễn cải lương, khi rảnh thì ngồi vẽ hình Út Bạch Lan, Thẩm Thúy Hằng, Thanh Nga trên giấy cho… đỡ nhớ. Thật sự chưa bao giờ Bạch Tuyết nghĩ sẽ theo nghề hát. Vậy mà, vẫn theo, như một định mệnh.

16 tuổi bước vào cánh màn nhung, hát tỉnh được hơn 1 năm thì nghệ sĩ Út Trà Ôn đem về hát chung với ông ở đoàn Thống Nhất do ông làm bầu, khoảng 1 năm sau thì đoạt ngay giải thưởng. Con đường nghệ thuật sao mà sáng sủa đến mức ngỡ trong mơ. Chưa kể, vài năm sau đó chị lại đoạt giải Kim Khánh và được phong “Cải lương chi bảo”. Dồn dập những niềm vui…

 

NSƯT Bạch Tuyết vai Thái hậu Dương Vân Nga 

Nhưng Bạch Tuyết nói: “Thật sự tôi không quá vui như mọi người tưởng. Tôi sống với các ma sơ, quen được rèn luyện tính kỷ luật, biết kiềm chế, vui buồn gì cũng không quá bung ra, mà bình tĩnh nhận lấy. Buồn quá cũng không gục ngã, vui quá cũng không kiêu căng. Sau này khi tiếp cận Phật giáo, tôi mới biết đó là tính thiền, thong dong tâm trí”. Chị rung động nhất là lần được nghệ sĩ Thanh Nga trao tặng huy chương. Đó là người mà chị ái mộ cho mãi đến sau này.

Được giải thưởng, Bạch Tuyết vẫn không thay đổi. Chị nói: “Tôi thường lân la chơi với mấy cô chuyên múa vũ trong đoàn và mấy anh nhạc sĩ. Bởi mình vẫn còn phải học hỏi dài dài chứ không được lơ là”.

Sau giải Thanh Tâm, hợp đồng của Bạch Tuyết lên vù vù, tính ra vàng thì có thể mua mấy căn nhà một lúc. Và đoàn Dạ Lý Hương ngấp nghé mời chị. Về Dạ Lý Hương, Bạch Tuyết cùng với nghệ sĩ Hùng Cường đã làm nên “cặp sóng thần”, bán vé  không thể tả, và tốn biết bao giấy mực của báo chí. Rồi Bạch Tuyết về đoàn Tấn Tài một thời gian, sau đó ngưng hát để… đi học. Mãi đến khi nghệ sĩ Thanh Nga mất, Nhà hát Trần Hữu Trang mời chị xuất hiện trở lại trong vở Dương Vân Nga, và tiếp theo là Đời cô Lựu, lại gây một phen xôn xao dư luận.

Nghệ sĩ… tài tử

Thực sự, Bạch Tuyết không hề hát liên tục năm này qua tháng nọ, mà chị cứ đứt quãng từng chặng. Đang hát nửa năm với Út Trà Ôn, chị đòi nghỉ để ôn thi tú tài. Hồi xưa nhà nghèo, nên vừa học xong lớp đệ tứ (lớp 10 bây giờ), chị phải theo gánh hát. Đi hát mà cứ thèm học, cứ mơ trở lại trường, lấy bằng tốt nghiệp. Cho nên, khi vừa có tiền kha khá là chị nghỉ, có khi nửa năm, có khi 1 năm, thậm chí để lấy bằng cử nhân văn khoa hoặc bằng thạc sĩ, tiến sĩ, chị không ngần ngại nghỉ hát luôn mấy năm trời. Học tới chừng nào “đã” thì thôi. Chuyện hát thì còn đó, lo gì. Và mỗi lần tái xuất, chị lại có những vai rất hay, khán giả ấn tượng mạnh mẽ. Hát kiểu đó quả là… tài tử!

 

 

Nghệ sĩ Thanh Nga trao huy chương vàng Thanh Tâm cho nghệ sĩ Bạch Tuyết (trái)

Bạch Tuyết cười: “Tôi không thích làm trối chết, dù là đang giai đoạn hái ra tiền. Cứ thong dong chọn cái gì mình thích. Đời ngắn ngủi lắm, có bao nhiêu tiền cũng không bù được tri thức. Tới giờ này, tôi vẫn còn tự học bằng cách đọc rất nhiều”. Có lẽ đó là một trong những điểm khiến Bạch Tuyết khác biệt với nhiều nghệ sĩ. Có người thích thì khen chị nỗ lực vươn lên, làm tự hào cho nghệ sĩ cải lương vốn bị xem là ít học. Người không thích thì chê bai chị. Chị biết hết. Và lại cười: “Ở sao cho vừa lòng người! Mình biết mình hạnh phúc là được rồi!”.

Mấy chục năm nay, nghệ sĩ Bạch Tuyết làm giám khảo cho rất nhiều cuộc thi cải lương. Chị tìm thấy hình ảnh của mình ngày xưa, cho nên vừa nghiêm túc, công bằng, lại vừa ân cần dìu dắt. Chị dìu dắt cả những đàn em đang học ở các trường nghề có khoa văn hóa phương Đông và ở trường sân khấu chuyên nghiệp. Tranh thủ thời gian rảnh, chị viết trường ca cải lương, kịch bản cải lương, viết sách Phật giáo. Hình như chị chưa có tuổi già dù đã 66 tuổi.

Từ 1991 đến nay, giới cải lương có một giải thưởng lớn là giải Trần Hữu Trang. Thực ra, giải này là sự tiếp nối của giải Thanh Tâm (ra đời năm 1958, đến 1968 mới chấm dứt).
Sau khi ra mắt, giải Thanh Tâm trở nên danh giá trong làng sân khấu. Ngoài tiêu chuẩn ca diễn xuất sắc, giải Thanh Tâm còn đòi hỏi tiêu chuẩn đạo đức, cho nên nghệ sĩ luôn rèn luyện, phấn đấu. Việc chấm giải rất lạ, không hề có một cuộc thi nào diễn ra. Ban giám khảo sẽ đi xem tất cả các vở tuồng trong năm, chọn ra tuồng hay, nghệ sĩ giỏi rồi cuối cùng mới ngồi lại bình bầu. Vì thế, nghệ sĩ phải luôn trong tư thế “thi” suốt cả năm, hết năm này lại năm khác, hết suất này tới suất khác. Thậm chí phải luôn sống tử tế, vì chỉ cần tai tiếng là coi như bị loại.

Nghệ sĩ Thanh Nga là người duy nhất nhận giải Thanh Tâm lần đầu tiên.

Hoàng Kim
(Theo Thanh Niên)

Con gái cố nghệ sĩ Kim Ngọc chịu lỗ dựng vở ‘Thái hậu Dương Vân Nga’

Nghệ sĩ Kim Ngân đầu tư 800 triệu đồng tái dựng vở cải lương kinh điển dù biết tiền bán vé không đủ bù vốn.

Sáng 6/4, tại TP HCM, đạo diễn – Nghệ sĩ Ưu tú Hoa Hạ và nghệ sĩ Kim Ngân – con gái cố nghệ sĩ Kim Ngọc – ra mắt dự án tái dựng vở Thái hậu Dương Vân Nga, công diễn ngày 6 và 13/5 tại nhà hát Bến Thành, quận 1. Vở mới có sự tham gia của nghệ sĩ Phượng Loan, Lê Tứ, Chí Linh, Kim Ngân, Hồng Tơ, Đại Nghĩa, Quỳnh Hương, Điền Trung, Thanh Thảo, Gia Bảo… cùng hai ca sĩ Phương Thanh và Quốc Đại. Dự án nhằm kỷ niệm 100 năm ra đời của bộ môn cải lương.

Nghệ sĩ Kim Ngân là con gái của cố nghệ sĩ Kim Ngọc và là chị của diễn viên Hiều Hiền. Chị từng theo mẹ diễn tấu hài, rồi được bà gửi sang đoàn ca múa nhạc Hương Miền Nam học nghề. Sau này lập gia đình, Kim Ngân chuyển sang kinh doanh, ít biểu diễn. Gần đây, chị trở lại làng sân khấu và ấp ủ tái dựng các vở cải lương kinh điển. Ý tưởng được đạo diễn Hoa Hạ ủng hộ nhiệt tình. Cả hai bắt tay cùng làm vở Thái hậu Dương Vân Nga với tổng kinh phí là 800 triệu đồng. Hoa Hạ chia sẻ nếu bán hết số vé ở hai đêm tại nhà hát, tiền thu tối đa cũng chỉ 600 triệu đồng. “Dù cầm chắc lỗ vốn, chúng tôi vẫn muốn dùng tiền túi thay vì xin tài trợ, bởi khát khao phục dựng một tác phẩm xưa”, đạo diễn bày tỏ.

 

Nghệ sĩ Kim Ngân trong tạo hình Thái hậu Dương Vân Nga. 

Đạo diễn từng nghiên cứu vở của NSND Bạch Tuyết và NSND Ngọc Giàu. Chị đánh giá cả hai diễn quá hay, vì vậy, lặp lại thành công của các cây đa cây đề là điều không thể. Bản dựng mới sẽ xoáy sâu vào chi tiết các trung thần đau đáu về việc ngôi báu và long bào của Đinh Tiên Hoàng được trao lại cho Lê Hoàn. Đạo diễn đặt niềm tin vào Đại Nghĩa và Xuân Trang – hai diễn viên đóng vai trung thần – cùng hai nghệ sĩ đóng vai thái hậu vì họ có lối ca diễn chân phương, mộc mạc. Nghệ sĩ Ưu tú Phượng Loan – Lê Tứ sẽ diễn vai Thái hậu Dương Vân Nga – tướng quân Lê Hoàn ở màn một, màn hai. Nghệ sĩ Kim Ngân và Chí Linh sẽ diễn hai nhân vật này ở màn ba, màn bốn. Hoa Hạ cho biết không áp lực khi dựng lại vở kinh điển vì sẽ thực hiện một phiên bản mới, khác với các bản cũ của cố Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Nga, Nghệ sĩ Nhân dân Bạch Tuyết…

 

Đạo diễn Hoa Hạ chia sẻ ở sự kiện.

Trang phục chương trình do nghệ sĩ Công Minh thực hiện với các thiết kế thêu tay và vẽ thay vì chất liệu kim sa như các vở trước. Âm nhạc do nhạc sĩ Thái An đảm nhận. Vở được bán với giá vé từ 300 nghìn đến một triệu đồng. Êkíp còn dành 250 ghế trên lầu với mức giá trên 100 nghìn đồng cho khán giả là học sinh, sinh viên. Trước việc mời Phương Thanh diễn dù giọng ca này từng gây tranh cãi khi hát cải lương, đạo diễn cho biết trong các vở trước như Kim Vân Kiều, Chiếc áo thiên nga, Phương Thanh tạo hiệu ứng khán giả tốt, được vỗ tay nhiều lần khi xuất hiện. Chị kỳ vọng Phương Thanh và Quốc Đại là nhân tố tạo thêm nét mới cho tác phẩm. Cả hai đóng vai phụ.

NSND Bạch Tuyết diễn lại vở Thái Hậu Dương Vân Nga

 

 

Vở Thái hậu Dương Vân Nga ra mắt năm 1977 tại đoàn cải lương Thanh Minh -Thanh Nga (tác giả Hoa Phượng – Chi Lăng – Hoàng Việt – Thể Hà Vân, phỏng theo kịch bản chèo của Trúc Đường, đạo diễn Chi Lăng). Vở diễn kể lại giai đoạn sau khi Đinh Tiên Hoàng qua đời, Thái hậu Dương Vân Nga nắm quyền nhiếp chính, rồi trao lại long bào cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Ông lên ngôi, lấy hiệu là Lê Đại Hành, lập nên nhà Tiền Lê, đánh tan quân Tống.

Thái hậu Dương Vân Nga là vai diễn cuối của cố NSƯT Thanh Nga. Sau khi bà qua đời năm 1978, nghệ sĩ Kim Hương diễn thay vai này trong đoàn Thanh Minh – Thanh Nga. Sau đó, các nghệ sĩ như Bạch Tuyết, Ngọc Giàu… tiếp tục đảm nhận nhân vật.

Nguồn: Tam Kỳ/Vnexpress

Truyền dạy Hát Xoan trong cộng đồng các phường Xoan gốc

 Công tác đào tạo nghệ nhân kế cận và truyền dạy Hát Xoan trong cộng đồng là nhiệm vụ quan trọng được ưu tiên hàng đầu trong Đề án bảo tồn Hát Xoan giai đoạn 2013 – 2020 và Kế hoạch bảo tồn và phát huy di sản Hát Xoan hằng năm. Đây cũng là yếu tố có tính quyết định đến sự bền vững cho việc bảo tồn lâu dài của di sản Hát Xoan, phát huy vai trò của các nghệ nhân cao tuổi đào tạo các nghệ nhân trẻ. Xác định được tầm quan trọng đó, những năm qua, các phường Xoan gốc luôn duy trì các lớp học hát Xoan với  4 – 5 thế hệ, từ các học sinh  6 – 7 tuổi  đến nghệ nhân cao niên 80 – 90 tuổi. Tại các lớp truyền dạy, các thế hệ đào, kép đã cùng nhau trao truyền kỹ năng trình bày các lời ca, điệu múa nhằm khơi dậy niềm đam mê của mỗi thế hệ đối với Hát Xoan.

Nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch và các thành viên phường Xoan An Thái biểu diễn Hát Xoan tại đình Hùng Lô

 

Không phải tới khi di sản Hát Xoan được công nhận, các nghệ nhân mới nghĩ đến việc truyền dạy Hát Xoan cho các thế hệ sau mà họ đã âm thầm làm công việc đó trong suốt nhiều năm qua. Đến nay, Hát Xoan đã được đông đảo bạn bè thế giới biết đến và yêu mến, phong trào học, nghe và biểu diễn Hát Xoan đã trở thành một phong trào rộng khắp trong toàn tỉnh. Cuộc sống của những nghệ nhân Hát Xoan ngày càng bận rộn hơn bởi vừa đi truyền dạy cho các lớp học ở nhiều nơi trong tỉnh vừa tiếp tục duy trì, mở rộng những lớp Hát Xoan cho các em nhỏ ở phường Xoan của mình. Trong ngôi nhà nhỏ đã bao đời nay gắn bó với câu ca di sản, Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Lịch – Trùm phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu, thành phố Việt Trì đang truyền lửa Hát Xoan cho thế hệ trẻ. Nhìn hai anh em Bùi Việt Hào (8 tuổi) và Bùi Như Quỳnh (6 tuổi) đang tập trung cao độ ôn lại làn điệu Hát Xoan theo nghệ nhân truyền dạy mới thấy Hát Xoan ngày càng có sức hút với giới trẻ.
May mắn sinh ra ở phường Xoan gốc, lại có ông nội, bà ngoại và mẹ đều gắn bó với Hát Xoan, nên ngay từ nhỏ, Bùi Việt Hào, Bùi Như Quỳnh đã được làm quen với làn điệu Hát Xoan. Từ những buổi theo ông bà, theo mẹ đi tập luyện, biểu diễn, đến điệu hát ru đưa em vào giấc ngủ, cứ thế, câu Xoan đã ngấm dần, nhen nhóm tình yêu và đam mê trong các em.Dù ít tuổi là thế, nhưng Hào và Quỳnh đã thuộc lòng và biểu diễn được gần hết 31 bài Hát Xoan với những lời cổ rất khó học, khó nhớ. Hai anh em cùng với các nghệ nhân, thành viên của phường Xoan An Thái tích cực tham gia các chương trình biểu diễn, các hội thi, hội diễn phục vụ giỗ Tổ Hùng Vương – Lễ hội đền Hùng hằng năm và biểu diễn phục vụ du khách trong và ngoài nước góp phần bảo tồn, phát huy di sản Hát Xoan.
Theo nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch, việc truyền dạy cho thế hệ trẻ đã được phường Xoan An Thái triển khai hiệu quả. Bà đã dồn hết tâm huyết của mình để truyền lại những gì tinh túy nhất của làn điệu Xoan cho thế hệ sau với hy vọng sẽ gây dựng những hạt giống trong làng Xoan tương lai. Học hát Xoan là phải tập luyện bài bản, theo lề lối. Có như vậy mới bảo tồn được nguyên gốc, một trong những giá trị cốt lõi mà tỉnh Phú Thọ cam kết với UNESCO. Điều này đòi hỏi sự kiên trì, khéo léo của những nghệ nhân truyền dạy. Vì vậy, có những lớp chỉ diễn ra trong thời gian ngắn nhưng bà đã dồn hết tâm huyết để chỉ dẫn cho các học viên nắm đúng lời hát, điệu múa.
Rời phường Xoan An Thái, hình ảnh cô bé Trần Thị Linh mới 3 tuổi đang cùng với các anh chị luyện tập Hát Xoan mới thấy hết được tình yêu người dân nơi đây dành cho Xoan. Và đó cũng chính là nguồn động viên tinh thần lớn nhất nhất để những nghệ nhân như  bà Nguyễn Thị Lịch tiếp tục bền bỉ trao truyền, giữ cho ngọn lửa Xoan ngày càng bừng sáng.
Các em nhỏ phường Xoan Kim Đái biểu diễn Hát Xoan phục vụ du khách tại Miếu Lãi Lèn
Cứ vào chủ nhật hằng tuần, đình làng thôn Kim Đái lại rộn ràng tiếng hát, tiếng trống. Là 1 trong 3 phường Xoan gốc của xã Kim Đức, phường Xoan Kim Đái có trên 60 thành viên. Hoạt động của phường Xoan Kim Đái rất đều đặn. Ông Trùm vừa là thầy dạy nghệ thuật hát Xoan, vừa là người tổ chức các cuộc trình diễn và lưu diễn của phường Xoan đi khắp các đình làng trong vùng. Thành viên của phường Xoan đủ độ tuổi, trong đó các cụ cao niên trên 80 tuổi, nhỏ tuổi nhất chỉ 7 tuổi. Dưới sự chỉ dạy nhiệt tình của các nghệ nhân, không biết từ bao giờ lớp con trẻ trong thôn đã say mê bộ môn nghệ thuật truyền thống này. Em Nguyễn Thị Yên, xã Kim Đức chia sẻ: “Khi được các bà, các chú chỉ dẫn em cảm thấy rất vui và như được thêm những kiến thức về Hát Xoan, những điệu múa Hát Xoan”.
Anh Nguyễn Văn Quyết – Trùm phường Xoan Kim Đái cho biết: “Là lớp hậu bối được các cụ nghệ nhân truyền dạy nghệ thuật Hát Xoan, tôi luôn trách nhiệm giữ gìn truyền dạy cho các em thanh thiếu niên trong làng. Đến nay, các thành viên trong phường đã trình diễn thành thục các điệu Hát Xoan và thường xuyên tham gia biểu diễn tại các chương trình giao lưu, các cuộc thi trong và ngoài tỉnh. Để duy trì hoạt động của phường Xoan, thời gian tới, chúng tôi phối hợp với các khu dân cư trong xã tiếp tục mở lớp truyền dạy cho các em thiếu niên nhi đồng yêu thích Hát Xoan để giữ gìn, lưu truyền, phổ biến, phát huy cho thế hệ mai sau những giá trị độc đáo mang tính xã hội, nhân văn, những phong tục, tập quán tốt đẹp về Hát Xoan”.
Nghệ nhân Bùi Thị Kiều Nga – phường xoan Thét, xã Kim Đức cho biết: “Không phải bây giờ tôi mới truyền dạy cho các em mà nhiều năm nay công việc truyền dạy cho các em trong xã đã trở thành phong trào rộng khắp. Nhiều em tuổi còn nhỏ nhưng đã thuộc lòng bàn tay cả 3 quả cách trong Hát Xoan. Tôi rất mừng là các em vẫn thích hát và say sưa với Xoan. Với trách nhiệm là người đứng đầu phường Xoan, tôi sẽ cố gắng huy động các cháu thanh thiếu niên trong làng tham gia vào các lớp truyền dạy Hát Xoan trong cộng đồng. Cùng với đó, phường Xoan Thét tập trung truyền dạy lớp nghệ nhân kế cận – đây chính là những người sẽ giữ và truyền lửa di sản cho các thế hệ sau”.
Trải qua hàng nghìn năm, Hát Xoan nhiều lúc đứng trước nguy cơ bị mai một, thất truyền. Thế nhưng loại hình nghệ thuật truyền thống này vẫn có sức sống mạnh mẽ và lâu bền. Có được điều này là nhờ vào sự hoạt động kiên trì của những phường Xoan gốc. Ông Nguyễn Đắc Thủy – Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho biết: “Các nghệ nhân cao tuổi, các trùm phường Xoan gốc đã tổ chức truyền dạy cho thế hệ trẻ một cách trách nhiệm và nhiệt tình, họ truyền dạy ở nhiều không gian khác nhau, có thể tổ chức truyền dạy ở nhà, đình, miếu và tổ chức tại các không gian khác ở những lớp học. Và như vậy sự tiếp nhận của thế hệ trẻ được đa dạng mọi lúc, mọi nơi”.
Để các phường Xoan gốc hoạt động tích cực và hiệu quả, đặc biệt phải giữ nguyên bản sắc của mình mà không chịu sự tác động từ bên ngoài, UBND tỉnh đã hỗ trợ các phường Xoan để họ điều hành và chủ động tổ chức truyền dạy Hát Xoan cho lớp nghệ nhân kế cận và trong cộng đồng với nền tảng vững chắc, tăng nhanh số lượng người nắm vững Hát Xoan và lớp khán giả của Hát Xoan lên nhiều lần. Các di tích lịch sử gốc có liên quan đến môi trường hoạt động của Hát Xoan, thờ cúng Vua Hùng như: Miếu Lãi Lèn, đình Thét, đình An Thái, đình Kim Đái đã được khôi phục, trùng tu để tạo lại vị thế cho Hát Xoan trong lễ hội, nghi thức, phong tục và tạo không gian văn hóa, môi trường diễn xướng, đảm bảo sự phát triển bền vững của di sản Hát Xoan.
 Nguồn: Theo Hương Giang/ Phu Tho Gov